Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Kẻ Phụng Sự Thầm Lặng | Daniel Silva (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
91#
 Tác giả| Đăng lúc 27-11-2013 20:22:36 | Chỉ xem của tác giả
Chương 59
Tu viện Westmimster

Chín giờ 45 phút ngày Giáng sinh

Những ngọn tháp Gothic của tu viện Westminster – nhà thờ quốc gia của nước Anh, là noiw diễn ra nghi lễ đăng quang của hoàng gia kể từ thời William đại đế và là nơi an táng những vị vua, nghị sĩ và thi sĩ của Anh quốc – Lấp lánh trong ánh nắng mùa đông mát lạnh. Khoảng thời gian có nắng do những chuyên gia dự báo từ buổi sáng hôm trước đã thành hiẹn thực.

Gabriel không thắc mắc đó là điềm xấu hay tốt. Anh hài lòng khi tận hưởng được sự ấm áp rực rỡ của mặt trời trên đôi má sưng phồng của mình. Anh ngồi trên một chiếc ghế dài tại toà nhà Quốc hội, mặc bộ quần áo và đeo cặp kính râm mượn được, cặp kính ôm vòng lấy đôi mắt để che đi sự tơi tả của nó. Các bác sĩ của Đại sứ quán đã tiêm cho anh đủ để làm giảm đau cho những vết thương. Dù vậy, anh vẫn phải dựa người vào Mikhail để lấy sức. Chiếc ao khoác da của người đàn ông trẻ tuổi này vẫn còn đẫm nước sau một đêm đuổi theo Gabriel khắp Essex bằng xe máy. Bàn tay phải của Mikhail đang gõ theo một điệu lo âu lên chiếc quần jeans xanh đa bạc màu.

“Dừng lại đi”, Gabriel nói. “Anh làm tôi nhức đầu quá”.

Mikhail dừng một lúc rồi lại làm tiếp. Gabriel nhìn về phía khoảng sân hình tam giác ở phía bắc tu viện. Adrian Carter đang đứng dưới một cái cây cành lá trơ trọi dọc theo đường Victoria, mặc bộ ushanka mà ông đã mặc trong những khu vườn Tivoli ở Copenhagen. Người đứng cạnh ông, đội chiếc mũ chóp trên đầu, đeo kính đen, và tai nghe có dây; chính là Robert Halton. Cạnh Halton là Sarah Bancrroft, trước đây làm việc ở bảo tàng Philips ở Washington DC và gần đây làm việc cho cơ quan tình báo trung ương, hiện là người đủ sức thực hiện mọi công tác mật. Trong số những người hiện diện tại đây, chỉ có Sarah thực sự cảm nhận được tình hình nghiêm trọng sắp xảy ra. Gabriel tự hỏi. Cô ta sẽ theo dõi chứ? Hay lần này cô sẽ nhân cơ hội để tìm con đường khác?

Anh liếc quanh những con phố đầy nắng của Westminster. Eli Lavon và Dina Sarid đang lang thang trên phố Great George, còn Yaakov và Ross đang nói chuyện phiếm với thiếu ta Rimona Stern bên ngoài toà nhà quốc hội, Mordeai thì đang đứng trong bóng của chiếc đồng hồ Big Ben với quyển sách hướng dẫn du lịch trong tay. Graham Seymour đang ngồi trong chiếc xe chỉ huy trông như một chiếc xe bình thường ở phía kia của con phố Victoria ở cổng Storey, cùng với cảnh sát trưởng thành phố và sếp của SO19, ban đặc nhiệm. Hai mươi tay súng giỏi nhất của SO 19 được triệu tập và hiện đang tản ra quanh tu viện cùng những con phố xung quanh Westminster. Gabriel có thể nghe được những đoạn liên lạc của họ trong tai mình, nhưng anh chỉ có thể hiểu được phân nửa. Điều quan trọng đối với Gabriel không phải là anh biết được đặc điểm nhận diện của họ, điều quan trọng chính là họ phải nhận diện được anh.

“Có nghiêm trọng lắm không?”, Mikhail hỏi. “Ý tôi là những vụ tra tấn”.

“Giải trí thôi”, Gabriel nói cho qua chuyện. Anh không còn tâm trạng nào khơi gợi lại chuyện của đêm trước. “Không là gì so với những gì Ibrahim đã chịu đựng trong bàn tay mật vụ Ai Cập cả”.

“Anh có cảm thấy thoải mái hơn khi bắn hắn như thế?”.

“Ý cậu là Ishaq hả?”.

Người đàn ông trẻ hơn gật đầu.

“Không đâu Mikhail, không thoải mái. Nhưng khi đó cũng không tệ lắm”. Gabriel giưo tay chỉ về hướng cổng Bắc của tu viện. “Hãy nhìn những người đó. Nhiều người sẽ chết nhanh chóng nếu tôi không hành động thoe cách chúng ta từng làm”.

“Nếu không trúng mục tiêu, họ vẫn có thể chết”. Mikhail nhìn Gabriel. “Ngeh có vẻ như anh đang cố tự thuyết phục rằng mình có đạo đức khi tra tấn hắn”.

“Tôi cho là như thế. Tôi đã vượt giới hạn. Nhưng tất cả chúng ta đều đã vượt giới hạn. người Mỹ cũng vượt giới hạn sau ngày 11/9, giờ họ đang cố tìm đường quay lại. Không may là những tên khủng bố - thế hệ sắp nổi dạy từ những chiến trường ở Irắc sẽ có khuynh hướng bạo lực và manh động hơn những kẻ xuất thân từ Afghanistan”.

“Ta đã chống lại chúng và giờ thì bọn khủng bố lại kết tội ta là những tên khủng bố thực sự”.

“Vu cáo chính là thói quen của chúng, Mikhail. Phải quen với chuyện đó”.

Gabriel nghe một tiếng cắc trong máy nghe đeo tai. Nah nhìn về hướng cổng tu viện nhìn thấy những chiếc cửa khổng lồ đang mở ra chầm chậm. Graham Seymuor đã sắp xếp cho nhân viên của tu viện tiếp những người cầu nguyện Giáng sinh sớm hơn thường lệ, một phương án đơn giản làm giảm mạnh số người bị nạn nếu xảy ra bạo động. Gabriel chỉ hy vọng những tên tử vì đạo không nhận ra sự thay đổi này và không nghĩ rằng chúng đang bước vào một cái bẫy.

“Tôi đang ở đâu?”, Gabriel hỏi.

“Anh đang nói về những loại vũ khí bí mật cơ mà”.

“Đêm qua ấy, Mikhail. Tôi đã ở đâu tối qua vậy?”

“Harwich”.

“Tôi đã luôn luôn muốn đi thăm Harwich”, Gabriel nói. “Thế Chiara nhìn thấy bao nhiêu phần trăm?”

“Chỉ lúc cuối, khi họ đưa anh vào xe”, Mikhail đặt một tay lên vai Gabriel. “Tôi ước gì anh để tôi bắn cái thằng chết tiệt đó cho anh”.

“Thôi nào, Mikhail. Giáng sinh mà”.

“Không phải dành cho chúng ta đâu”, Mikhail nói. “Tôi chỉ hy vọng Ishaq khong nói dối”.

“Hắn không nói dối đâu”, Gabriel nói.

“Thế nếu chúng đưa cô ấy đến chỗ nào khác thì sao?”.

“Chúng không làm thế đâu. Cậu có thuốc lá không?”.

Mikhail sờ nhẹ túi trái của áo khoác.

“Còn bật lửa của cậu?”, Gabriel hỏi.

“Tôi có mọi thứ. Chỉ không có Elizabeth thôi”.

“Cô ấy đang đến đấy”, Gabriel nói. “Sẽ xong nhan thôi”.

Chiếc ô tô hiệu Ford Fiesta màu xám nhạt và trông cũng đẹp. Abel, người có đôi mắt xanh, đang lái xe, còn Cain ngồi bên cạnh cô ở ghế sau. Không còn đeo khăn trùm đầu, cô nhìn thấy mặt chúng lần đầu tiên và sững sờ vì chúng còn trẻ quá. Chúng mặc áo khoác dày, cạo râu nhẵn nhụi, có mùi nước hoa gỗ giáng hương. Cain đang nắm chặt cánh tay cô bắng tay trái, còn tay phải hắn cầm súng. Elizabeth cố gắng không nhìn vào khẩu súng hay thậm chí nghĩ đến nó. Thay vào đó, cô lặng thinh nhìn ra cửa sổ. Cô đã ra ngoài được hai tuần; hai tuần kể từ khi gặp một người khác ngoài Abel và Cain cùng những tên đồng loã đeo mặt nạ; hai tuần kể từ khi cô nhìn thấy ánh mặt trời hay ý thức được thời gian. Cánh cửa sổ chính là chiếc cổng đến hiện thực của cô. Cain và Abel đến từ thế giới của những kẻ bị nguyền rủa, cô nghĩ. Bên kia của ô kính chính là miền đất sống của cô.

Trong vòng vài phút, mọi thứ xung quanh cô thật xa lạ. Đường vào trạm xe điện ngầm trung tâm Camden vừa vụt qua, từ đó cô có thể biết mình đang ở phía Nam Luân Đôn. Mặc dù thời tiết dễ chịu nhưng đường phố vắng lặng đến kỳ lạ. Trên đường Tottenham Court, cô nhìn thấy những vòng hoa ngày lễ Giáng sinh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

92#
 Tác giả| Đăng lúc 27-11-2013 20:24:06 | Chỉ xem của tác giả
Chương 59
(tiếp theo)

Họ băng qua phố Oxford đi xuống ngã tư đường Charing đến quãng trường Trafalgar, sau đó đi dọc đường Whitehall đến Westminster. Khi rẽ vào đường Victoria, Elizabeth nhìn thấy một đám đông tụ tập bên dưới Tháp Bắc của tu viện. Đứng bên dưới một cái cây trơ trụi lá, cạnh một người đàn ông có dáng điệu mệt mỏi đội nón ushanka là một người có vẻ ngoài ắt nổi bật, cao to, đội mũ phớt, rất giống cha cô. Tất nhiên đó không phải là cha cô. Người cha sinh ở Colorado sẽ không bao giờ để mình bị bắt gặp với chiếc mũ như thế.

Một lúc sau, chúng rẽ lên phố Abbey Orchard. Abel ép vào một chỗ đỗ không hợp lệ rồi tắt máy. Cain nhét cây súng vào túi áo khoác rồi nắm chặt lấy tay cô.

“Chúng ta sẽ đi bộ một chút”, hắn nói. “Lát nữa cô sẽ được thả. Hãy ra khỏi xe chậm thôi, để cả hai tau vào túi áo đi mưa. Chúng tôi sẽ dắt cô đến nơi cô muốn đi. Phải cẩn thận đừng nói lời nào. Nếu không làm những gì chúng tôi bảo, tôi sẽ bắn vào tim cô. Cô hiểu không?”.

“Hiểu”, cô bình itnhx đáp.

Cain vươn người qua Elizabeth Halton, mở cửa cho cô. Cô rút chân ra khỏi xe bước lên phố, bước đi đầu tiên dẫn đến tự do của cô.

Kim đồng hồ Big Ben chỉ 9 giờ 59 phút thì tai nghe của Gabriel có tiếng nói. Giọng của Adrian Carter.

“Phố Victoria”, Carter bình tĩnh nói. “Cô ấy sẽ băng qua cổng Storey vào khu Sanctuary. Cô ấy đang đội bộ tóc giả màu vàng và mặc chiếc áo mưa sẫm màu”.

“CÒn những tên tử vì đạo?”.

“Mỗi tên nắm một cánh tay”.

“Halton vừa kết án tử hai tên đó, Adrian. Ông ấy có chắc không?”.

“Chắn chứ”.

“Đưa ông ấy ra khỏi đấy. Ngay bay giờ”.

Carter nắm lấy cùi chỏ Robert Halton dẫn ông đến đường Great George, Sarah theo sau cách hai bước chân. Gabriel và Mikhail đứng lên cùng lúc rồi bắt đầu bước đi. Sarah đang tho dõi họ. Nhìn chỗ khác đi, anh nghĩ. Cứ đi rồi nhìn chỗ khác.

Họ dừng vài giây ở góc quảng trường Quốc hội để cho chiếc xe buýt Luân Đôn đi qua, sau đó nhanh chóng băng qua đường vào khu đất của tu viện Westminster. Mikhail bước đi bên trái Gabriel, hơi thở gấp gáp, bước chân cứng rắn và dứt khoát, như một bản sao của Gabriel. Khẩu Beretta của Gabriel đoe bên hông trái còn cái đuôi súng đang ấn vào chiếc xương sườn bị gãy rất đau. Anh chỉ có nửa giây. Nửa giây để rút súng ra khỏi hông rồi vào vị trí nhả đạn. Khi còn trẻ, giống như Mikhail, anh có thể làm điều đó trong khoảng thời gian đủ để người ta vỗ tay mà thôi. Còn bây giờ? Anh tiếp tụ bước đi.

Họ đi qua những chiếc bóng mảnh khảnh bên dưới những tán cây nơi Carter và Halton đã đứng vài giây trước đó. Khi họ bước ra vùng ánh sáng mặt trời, họ nhìn thayá Elizabeth và những kẻ hộ tống lần đầu tiên, cố ý di chuyển dọc theo lối đi bộ sát với cổng Bắc của tu viện. Ánh mắt cô bị giấu dưới một cặp kính mát to như của ngôi sai điện ảnh và tay đút vào túi áo khoác. Một tên tử vì đạo đang nắm tay cô. Những bàn tay rảnh rang còn lại của chúng đút vào những chiếc túi hướng ra ngoài trên những chiếc áo khoác dày cộm.

“Chúng đặt tay lên bộ phân kích nổ đấy, Mikhail. Cậu thấy không?”.

“Thấy rồi”.

“Cậu có thấy những người đi phía sau chúng không? Cậu không được bắn trượt đấy”.

“Không đâu”.

“Cậu có thuốc lá không?”.

“Có sẵn đây”.

“Cứ tiếp tục đi đi”.

Hai trăm người cầu nguyện vẫn đứng bên ngoài Tháp Bắc, kiên nhẫn chờ đoiwj để được vào trong. Gabriel đặt tay lên khuỷu tay của Mikhail rồi thúc anh đi theo rìa của đám đông, vào lối đi bộ cắt ngang. Elizabeth và những tên khủng bố đang ở ngay trước mặt họ, chỉ cách 40 thước Anh. Anh nhanh chóng rút ngắn khoảng cách. Một giây thôi, Gabriel nghĩ. Một giây.

Ngón tay của Cain luồn vào cánh tay cô và bàn tay hắn đang run lên vì sợ. Cô tự hỏi tại sao chúng quyết định thả cô ở một nơi đông gnười như tu viện Westminster. Sau đó Cain làu bàu điều gì đó với Abel bằng tiếng Arập làm cô cảm thấy dường như có một tảng đá đã đè lên tim cô, và Elizabeth nhận ra mình được mang đến chỗ này không phả để được trả tự do, mà là bị hành hình.

Cô liếc mắt qua từng tên khủng bố. Những chiếc áo khoác dày cộm, ánh mắt chết người của chúng, những bàn tay run rẩy… cô nghĩ, chúng cũng sắp chết. Chúng là những tên tử vì đạo đeo đầy bom tự sát. Trong vài giây nữa, cô cũng sẽ tử vì đạo.

Cô nhìn về phía đám đông tụ tập bên ngoài Tháp Bắc của tu viện Westminster. Họ là những mục tiêu thực sự. Elizabeth đã bị bắt cóc trong một vụ tắm máu và có vẻ như chúng định hành hình cô trong một vụ tắm máu nữa. Cô không thể cho phép có thêm nhiều máu của những người vô tôi phải đổ xuống vì cô. Cô phải làm một việc gì đấy để cứu càng nhiều mạng sống càng tốt.

“Nhìn xuống”, Cain quát.

Không, Elizabeth nghĩ. Tao sẽ không nhìn xuống. Tao sẽ không khuất phục.

Rồi cô nhìn thấy anh ấy…

Một người đàn ông góc cạnh có chieuè cao trung bình đeo kính mát vòng quanh mắt và tóc ở hai bên thái dương đã bạc màu. Người đàn ông đang bước đi dọc theo rìa của đám đông cùng với một người đàn ông trẻ hơn, hơi xanh xao, bên cạnh. Đó cũng chính là người đã cứu cô ở công viên Hyde Park – cô tin chắc thế. Và anh ta sẽ cứu cô lần nữa.

Tuy nhiên, làm sao anh ta có thể làm được chứ?

Cain và Abel đặt tay vào túi. Chỉ một khoảnh khắc thôi là chúng sẽ kích nổ. Đó chính là khoảnh khắc Elizabeth phải cướp từ những tên khủng bố và đưa cho hai người đàn ông đang tiến về phía cô – hai người giờ đã đứng lại và châm điếu thuốc lá. Mình sẽ không khuất phục, cô nghĩ. Sau đó cô móc ngón chân cái của bàn chân trái vào gót chân phải. Cô ngã xuống vỉa hè.

Cain chụp lấy cô, một hành động phản xạ tốt bụng đáng giá bằng cả mạng sống của hắn. Khi đứng thẳng lại, cô nhìn thấy hai người đàn ông rút súng ra như hai ánh sét chớp lên rồi bắt đầu nhả đạn. Khuôn mặt của Cain biến mất sau khi tung toé máu và đầu óc vương vãi, còn đôi mắt xanh của Abel đồng thời nổ tung trong loạt đạn của họ. Những người đàn ông cầm súng đi nhanh như chớp qua chỗ cô, súng trong bàn tay vươn hết cỡ, dường như họ đang đuổi theo những viên đạn do chính mình bắn ra. Cain ngã xuống đất đầu tiên, người đàn ông có thái dương màu tro nhảy lên ngực hắn bắn thêm nhiều phát vào tim hắn, giống như anh đang tìm cách bắn cho hắn chui tọt xuống đất. Sau đó, anh kéo mạnh bàn tay của Cain ra khỏi túi áo khoác rồi la lớn yêu cầu Elizabeth chạy đi xa. Là người tù nhân gương mẫu cho đến cùng, cô chạy nhanh qua sân của tu viện về phía đường Victoria, nơi người đàn ông trông nổi bật với chiếc mũ phớt thình lình xuất hiện mở rộng vòng tay đón cô. Cô gục đầu vào ngực ông khóc nức nở. “Không sao đâu con, Elizabeth”, Robert Halton nói. “Cha đã có con rồi. Con an toàn rồi, con yêu của cha”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

93#
 Tác giả| Đăng lúc 27-11-2013 20:26:09 | Chỉ xem của tác giả
Phần 5: Đám Cưới Bên Hồ

Chương 60
Jerusalem

Hai buổi lễ hồi hương đáng chú ý diễn ra vào ngày sua Giáng sinh. Buổi lễ đầu tiên được tổ chức tại căn cứ không quân Andrews ở ngoại ô Washington được truyền hình trực tiếp khắp thế giới. Tổng thống có mặt tham dự, cùng toàn bộ đội an ninh quốc gia và hầu hết nghị sĩ quốc hội. Buổi lễ có ban nhạc hải quân biểu diễn, một ngôi sao nhạc đồng quê hát một bài hát yêu nước. Nhiều bài diễn văn được thực hiện nói về lòng quyết tâm và tính kiên định của người Mỹ. Nhiều lời ca ngợi được dành cho các nhân viên nam nữ thuộc lực lượng tình báo Mỹ và Anh, những người đã biến ngày này thành hiện thực. Không ai nói về tiền chuộc hay đàm phán và cái tên Israel cũng không được nói đến. Elizabeth Halton, vẫn còn bị ảnh hưởng bởi nỗi đau của vụ bắt cóc và hoàn cảnh giải cứu, cố gắng phát biểu trước đám đông nhưng chỉ cố được vài lời trước khi gục xuống. Cô được đưa ngay lên chiếc trực thăng đang đợi sẵn và trong vòng bảo vệ chặt chẽ, được đưa đến một địa điểm bí mật để bình phục.

Buổi lễ hồi hương thứ hai diễn ra tại sân bay Ben Guiron và tình cờ cũng diễn ra đồng thời với buổi lễ đầu tiên. Không có nhà chính trị nào có mặt và không có máy quay truyền hình nào để thu hình sự kiện này cho hậu thế. Không ai chơi các bản nhạc yêu nước, không có bài diễn văn nào và cũng chẳng có nghi thức đón tiếp chính thức. Với sự can thiệp của nhà nước Israel, hai mươi sáu người đàn ông và phụ nữ trên chiếc chuyên cơ vừa đến Luân Đôn xem như không có mặt. Họ là những người vô hình, là những bóng ma, họ có khả năng thoắt ẩn thoắt hiện. Họ biến mất vào màn đêm và dù đã quá khuya, họ vẫn được đưa ngay đến khu văn phòng vô danh ở đại lộ King Saul thuộc Tel Aviv, nơi họ phải trải qua đợt thẩm vấn đầu tiên. Những buổi thẩm vấn này không phải chỉ là nghi thức chiếu lệ, họ biết rằng ngay khi buổi lễ chấm dứt, các cuộc thẩm vấn sẽ bắt đầu. Một cơn bão đang đến. Những mái che sẽ phải được xây dựng gấp gáp. Vấn đề lương thực được đặt sang một bên. Báo chí sẽ được công bố tất cả sự thật.

Trong vòng bảy mươi hai giờ đầu tiên sau vụ giải cứu Elizabeth Halton đầy kịch tính, kịch bản sự kiện chính thức ở Anh lại khác xa với thực tế. Cuộc giải cứu cho cô, theo kịch bản này, chính là kết quả của những nỗ lực không mệt mỏi của các cơ quan tình báo và cảnh sát Anh, hợp tác ăn ý với các đồng nghiệp ở Mỹ. Dù tiền chuộc đã được đại sứ Halton chuẩn bị nhưng nó vẫn chưa được trả cho ai. Hai tay súng đã giết những kẻ đánh bom tự sát không thành ở tu viện Westminster là thành viên của ban SO 19 của cảnh sát thành phố. Tuy nhiên vì lí do an ninh, hai người đàn ông này không được đưa ra nhận diện trước công chúng hay được thông báo cho giới báo chí bình luận – vào lúc này hay ở bất kỳ thời điểm nào trong tương lai. Cảnh sát trưởng thành phố nhấn mạnh.

Những thông tin rò rỉ đầu tiên của vụ này xuất hiện bốn ngày sau Giáng sinh, không phải ở Anh mà là ở Đan Mạch, nơi một tờ báo địa phương đăng một bài tường thuật khá hấp dẫn về một vụ nổ bí mật ở một ngôi nhà nghỉ hè dọc Biển Bắc. Cảnh sát Đan Mạch ban đầu nói rằng ngôi nhà này không có người ở, nhưng một nhân viên y tế địa phương đã phản đối lời khẳng định đó, cho rằng chính anh ta đã nhìn thấy ba thi thể được lấy lên từ đống cháy đen đổ nát. Nhân viên y tế này cũng khẳng định đã chữa trị cho một người đàn ông nói tiếng Đức vì những vết thương nhẹ trên mặt. Lars Mortensen, giám đốc cơ quan an ninh Đan Mạch, xuất hiện trước một cuộc họp báo được sắp đặt vội vã ở Copenhagen xác nhận rằng, thực sự có ba người bị sát hại trong vụ này và rằng vụ này có liên quan đến cuộc truy tìm Elizabeth Halton. Mortensen sau đó tuyên bố ông không còn gì để nói về chuyện này cho đến khi thực hiện một cuộc điều tra chính thức.

Thông tin rò rỉ tiếp xảy ra hai ngày sau ở Amsterdam, nơi một phụ nữ Ai Cập độ tuổi cuối trung niên xuất hiện tại một cuộc họp báo xác nhận rằng một trong những người bị giết ở miền Bắc Đan Mạch chính là chồng bà, Ibrahim Fawaz. Bằng tiếng Arập thông qua một thông dịch viên, bà Fawaz nói rằng mình đã được các quan chức Mỹ thông báo rằng chồng bà đang làm việc cho họ và đã thiệt mạng trong một nỗ lực không thành khi giải cứu cô Halton. Bà còn nói rằng tất cả những nổ lực để đến được với con trai, con dâu và cháu trai ở Copenhagen đều không thành công. Những luật sư của bà suy luận rằng Ibrahim Fawaz đã bị bắt cóc bởi các mật vụ Mỹ và được chiêu dụ vào hàng ngũ làm việc cho CIA. Họ kêu gọi ngài Bộ trưởng tư pháp Hà Lan ra lệnh mở cuộc điều tra về vấn đề này. Vào lúc bốn giờ chiều ngày hôm đó, ngài Bộ trưởng đã hứa hẹn rằng cuộc điều tra sẽ được thực hiện một cách đầy đủ và khả quan.

Buổi sáng hôm sau ở Luân Đôn, người phát ngôn của Bộ nội vụ xác nhận thông tin cho rằng con trai Ibrahim Fawaz là một trong hai tên khủng bố được phát hiện đã chết trong chiếc xe bán tải chứa đầy bom đâm xuống một cánh đồng ở Essex ngay sau bình minh ngày Giáng sinh. Người phát ngôn này cũng xác nhận rằng Fawaz con đã bị bắn nhiều phát vào chân và tay tài xế xe bán tải, hiện vẫn chưa được nhận dạng, đã bị bắn chết bằng phát súng vào đầu. Ai gây ra thương vong và chính xác những gì đã xảy ra ở Essex vẫn là một bí mật chưa biết được, dù các nhà điều tra người Anh đang làm việc với một giả định rằng một vụ tấn công thứ hai đã được lên kế hoạch cho buổi sáng Giáng sinh và cuối cùng nó cũng đã tan tành mây khói.

Vào ngày đầu năm mới, tờ Điện tín đặt dấu hỏi về sự kiện tại tu viện Westminster này. Theo thông tin chính thức của báo chí, nhiều nhân chứng cho biết tay súng hét lớn bảo Elizabeth Halton chạy đi không nói giọng Anh. Một nhân chứng khác, đi qua hai người đàn ông cầm súng vài giây trước khi họ chuẩn bị bắn, đã nghe thấy họ nói với nhau bằng một ngôn ngữ không phải là tiếng Anh. Sau khi nghe băng thu âm hai mươi ngôn ngữ khác nhau, nhân chứng đó xác nhận tiếng Hebrew là thứ tiếng anh ta đã nghe.

Vụ việc bị vỡ lỡ vào ngày hôm sau khi tờ Times, trong một bài điều tra rùm beng có tựa đến LIÊN KẾT JERUSALEM, đã nêu ra trường hợp chấn động về sự dính dáng của Israel trong vụ giải cứu Elizabeth Halton. Trong báo cáo có hình chụp một người đàn ông đang chờ đi vào tu viện vài giây sau vụ giải cứu. Các chuyên gia về nhận diện gương mặt do tờ Times thuê đã nêu kết luận rằng một trong những người đàn ông này không ai khác chính là Gabriel Allon, điệp viên Israel huyền thoại, người đã giết ba tên khủng bố ở công viên Hyde Park buổi sáng ngày diễn ra vụ bắt cóc Elizabeth Halton…

Đến tối đó, đã xuất hiện nhiều yêu cầu lớn tiếng ở Quốc hội để Chính phủ hoàng gia và các cơ quan mật vụ nói rõ về những sự kiện dẫn đến cuộc giải cứu quý cô Halton. Những yêu cầu này được đưa ra khắp các thủ đô của các nước Tây Âu, và ở Washington, nơi các phóng viên và nghị sĩ Quốc hội kêu gọi Nhà Trắng giải thích những gì Tổng thống biết về mối liên hệ của Allon tới vụ này. Theo những phụ tá của Tổng thống, ngày càng rõ ràng, rằng các nhân viên tình báo Mỹ và đồng nghiệp Israel đã cày xéo khắp châu Âu trong cuộc tìm kiếm điên cuồng để tìm thấy cô Halton trước thời hạn chót và giải thoát cho cô. Chính xác thì chuyện gì đã xảy ra? Luật pháp có bị bẻ cong hay vi phạm không? Nếu có thì ai đã làm?

Chính quyền Israel, bị bao vây bởi những yêu cầu của báo chí trong và ngoài nước, đã phá tan sự im lặng chính thức về vụ này vào sáng hôm sau. Một nữ phát ngôn viên cho văn phòng Thủ tướng thừa nhận rằng cơ quan tình báo mật của Israel đã hỗ trợ cho các nhà điều tra Mỹ. Rồi cô nói rõ rằng bản chất của cuộc hỗ trợ này sẽ không bao giờ được công bố rộng rãi. Đối với đề nghị Gabriel Allon đi Luân Đôn và Washington để hỗ trợ những cuộc điều tra chính thức cho vụ này, câu trả lời của anh ra vẫn chưa rõ. Gabriel Allon đang trong kỳ nghĩ dài vì lí do cá nhân, cô giải thích, và theo chính quyền Israel, không ai biết tung tích của anh.

Nếu họ có nỗ lực nghiêm túc nào để xác định nơi ở hiện tại của anh, điều mà họ hầu như chắc chắn chưa làm, thì họ hẳn đã tìm thấy anh đang nghỉ ngơi yên tĩnh trong căn hộ nhỏ trên phố Narkiss.

Từ trước tới giờ anh đã trải qua nhiều những cơn bão như thế này và biết rằng hành động tốt nhất là đặt bảng che cửa chính và cửa sổ rồi không nói lời nào.

Những vết thương của anh đau đến nỗi anh không còn nhiều sức lực cho việc gì khác. Trong những lần bị tra tấn bởi bàn tay của bọn bắt cóc và vụ nổ xảy ra trong vụ giải cứu con tin, anh đã bị nhiều vết gãy và nứt xương, hàng chục vết thương trên mặt và những chỗ khác, chân tay anh bầm tím. Bụng dưới anh đau dữ dội đến nỗi anh không ăn được gì, hai ngày sau khi trở về Jerusalem, anh thấy mình không thể xoay đầu được. Một bác sĩ của văn phòng thường đến khám cho anh phát hiện anh đã chấn thương cổ mà trước đó đã không chẩn đoán được, việc này khiến anh phải đeo nẹp cổ cứng trong vài tuần.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

94#
 Tác giả| Đăng lúc 27-11-2013 20:27:22 | Chỉ xem của tác giả
Chương 60
(tiếp theo)

Trong hai tuần anh không rời khỏi giường. Dù đã bắt đầu lành lặn và bình phục, bản tính ham làm việc của anh biến anh thành một bệnh nhân tồi. Để giúp mình trải qua những giờ phút nhàn rỗi, anh chăm chú theo dõi vụ của mình trên báo chí và truyền hình. Khi chứng cứ về sự tham gia của Israel trong vụ này ngày càng rõ, các cộng đồng Hồi giáo đang yên ổn ở châu Âu cũng như những người ủng hộ phần còn lại của châu Âu đều tỏ thái độ phẫn nộ. Nỗi sợ hãi của những vụ đánh bom ở Luân Đôn và vụ bắt cóc Elizabeth Halton hình như nhanh chóng rơi vào quên lãng, thay vào đó lại nổi lên sự quan tâm của toàn lục địa về chiến thuật được sử dụng để tìm kiếm và giải cứu cho cô. Những thoả thuận được khơi mào một cách thận trọng của Shamron với các Bộ tư pháp và cơ quan an ninh châu Âu chẳng mấy chốc bị phơi bày ra ánh sáng. Gabriel một lần nữa lại trở thành người bị truy tìm nhiều hơn- truy tìm để thẩm vấn ở Hà Lan và Đan Mạch về cái chết của Ibrahim Fawaz, truy tìm để thẩm vấn ở Anh về vai trò của anh trong vụ giải cứu Elizabeth Halton.

Còn có một vơn bão khác đang tràn tới, một sự kiện hầu như không được giới truyền thông toàn cầu chú ý và cộng đồng bảo vệ nhân quyền hình như đã bị ám ảnh bởi những hành động được cho là sai lầm của Gabriel và đồng đội của anh. Phía bên kia biên giới phía tây của Israel, ở Ai Cập, chính quyền sở tại đang đối mặt với tổ chức Thanh kiếm Allah – cuộc thanh trừng có động cơ theo cách họ đã xử lí với mọi thách thức của người Hồi giáo trong quá khứ - với lực lượng áp đảo và sự dã man cùng cực. Văn phòng đã nhận được những báo cáo về các cuộc chiến trên đường phố giữa quân đội và các phần tử Hồi giáo từ khu vực châu thổ sông Nile cho đến Thượng Ai Cập. Còn có các báo cáo về những vụ thảm sát, hành quyết nhanh chóng, sử dụng biện pháp tra tấn rộng rãi, và một trại tập trung ở sa mạc phía tây nơi hàng ngàn phần tử cấp tiến bị giam giữ mà không có lời buộc tội. Một bản đánh giá được chuẩn bị nhanh chóng của Văn phòng kết luận rằng chính sự đàn áp đã làm nảy sinh những phần tử cấp tiến và những phần tử này phạm nhiều tội ác khủng bố.

Đến giữa tháng Giêng, Gabriel đã đủ khoẻ để rời khỏi giường bệnh. Bác sĩ đến xem rồi sau khi khám và kiểm tra kỹ cổ anh, bác sĩ quyết định tháo nẹp. Do muốn quên đi những sự kiện không mấy vui đang diễn ra xung quanh, anh chỉ tập trung vào kế hoạch cho đám cưới. Anh ngồi hàng giờ với Chiara trong phòng khách, lật từng trang tạp chí cưới hào nhoáng và bàn bạc kỹ về những vấn đề như thức ăn và hoa. Họ chọn một ngày giữa tháng năm rồi lên một danh sách khách mời tạm thời, trong đó có bảy trăm cái tên. Sau hai tiếng đồng hồ bàn thảo, họ quyết định chỉ gạt ra tên của hai mươi người. Một tuần sau, khi những vết bầm trên mặt đã trở về trạng thái chấp nhận được, họ cùng nhau đi Jerusalem để kiểm tra phòng tiệc của khách sạn và những nơi khác có thể tổ chức nghi lễ và tiếp khách. Người điều phối sự kiện đặc biệt tại khách sạn King David, sau khi hỏi về danh sách khách mời, đã vui vẻ đề nghị họ nên tổ chức đám cưới ở sân vận động Teddy Kollek, một đề nghị mà Chiara không thấy thú vị chút nào. Cô thất vọng khi lái xe trên quãng đường ngắn về đường Narkiss.

Gabriel thận trọng nói. “Có lẽ đây là một sai lầm”.

“Thế chúng ta sẽ xem lại”, cô đáp.

“Ý anh không phải là đám cưới mà là quy mô của đám cưới. Có lẽ chúng ta nên tổ chức một đám cưới nhỏ và riêng tư. Chỉ có gia đình và bạn bè. Những người bạn thực sự”.

Cô thở hắt ra. “Không có điều gì làm em vui hơn thế”.

Đến đầu tháng hai, anh cảm thấy nỗi khao khát được làm việc. Anh rời đường Narkiss lúc mười giờ vào một buổi sáng, lái xe đến bảo tàng Israel để xem có điều gì ở đó có thể làm anh bận rộn. Sau một cuộc gặp ngắn với trưởng ban hội hoạ châu Âu, anh rời nơi đó với một bức tranh khá đẹp của Rembrandt, hình như có tên là Thánh Peter trong nhà lao. Bức tranh đẹp về cấu trúc và chỉ cần một lớp sơn vani sạch và một ít nét vẽ phụ. Anh biến phòng ngủ trống trong căn hộ thành xưởng tranh nhưng Chiara than phiền về mùi của hoá chất, van nài anh chuyển những hoạt động sau này sang một studio đúng nghĩa. Anh đã tìm thấy một cái, trong khu vực dành cho nghệ sĩ nhìn xuống thung lũng Hinnom, và bắt đầu làm việc ở đó trong tuần kế tiếp.

Với sự xuất hiện của bức tran Rembrandt, những ngày trôi qua của anh cuối cùng cũng có chút gì mang tính công việc thường nhật. Anh thường đến studio sớm rồi làm việc cho đến trưa; sau đó, sau khi nghỉ ngơi ăn trưa thư giãn với Chiara, anh thường trở về studio làm việc cho đến khi không còn đủ ánh sáng. Một hay hai lần mỗi tuần, anh thường cắt ngắn buổi làm việc chiều rồi lái xe băng qua Jerusalem đến bệnh viện tâm thần núi Herzl để ở cạnh Leah. Đã nhiều tháng qua anh không gặp cô, và trong ba lần đầu tiên anh xuất hiện, cô không nhận ra anh. Trong lần thăm thứ tư, cô đã chào anh bằng tên rồi ngẩng mặt lên để được anh hôn. Anh đẩy xe lăn của cô vào vườn rồi họ cùng ngồi với nhau dưới một cây ôliu – cũng cây ôliu mà anh đã thấy trong giấc mơ khi đang ở trong tay những tên sát thủ nhóm Thanh kiếm Allah. Cô đặt bàn tay lên mặt anh. Da cô đầy sẹo do bị bỏng và sờ vào thấy lạnh lẽo.

“Anh lại chiến đấu”, cô nói.

Anh gật đầu chầm chậm.

“Nhóm Tháng Chín Đen phải không?”, cô hỏi.

“Cách đây đã lâu rồi, Leah. Chúng không còn tồn tại nữa”.

Cô nhìn bàn tay anh. Bàn tay lấm lem bột màu.

“Anh lại vẽ nữa phải không?”.

“Phục chế thôi”.

“Anh có thể phục chế cho em khi anh xong việc không?”.

Một giọt nước mắt lăn dài trên má anh. Cô lau đi rồi nhìn bàn tay anh lần nữa.

“Sao anh không đeo nhẫn cưới?”.

“Anh và cô ấy chưa cưới mà”.

“Suy nghĩ lại phải không?”.

“Không phải đâu, Leah – không phải suy nghĩ lại”.

“Thế anh còn chờ gì nữa?”, cô bất ngờ nhìn lảng đi, mắt không còn chút ánh sáng. “Hãy nhìn tuyết đi, Gabriel. Đẹp không nào?”.

Anh đứng dậy đẩy cô quay trở lại bênh viện.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

95#
 Tác giả| Đăng lúc 28-11-2013 19:47:13 | Chỉ xem của tác giả
Chương 61
Jerusalem

Gabriel lái xe quay lại đường Narkiss qua một cơn mưa to bất chợt rồi vào căn hộ của mình tìm bộ bàn ghế dành cho bốn người, không khí đầy mùi gà nướng và món cà tím nổi tiếng của Gilah Shamron với gia vị Marốc. Một phụ nữ ốm yếu nhỏ người với đôi mắt buồn và bộ tóc xám xoăn tít đang ngồi trên tràng kỷ cạnh Chiara nhìn những tấm ảnh váy cưới. Khi Gabriel hôn lên má bà, anh cảm thấy mùi tử đinh hương và làn da mịn màng như lụa.

“Ari đâu?”, anh hỏi.

Bà chỉ ra ban công. “Bảo ông ấy đừng hút thuốc nhiều nhé, Gabriel. Cháu là người duy nhất ông ấy chịu nghe đấy”.

“Cô chắc nhầm cháu với ai rồi, Gilah ạ. Chồng cô có khả năng chỉ nghe những gì ông ấy muốn nghe còn người cuối cùng ông ấy lắng nghe là cháu”.

“Ari đâu có nói thế. Ông ấy kể cho cô nghe về vụ tranh cãi dữ dội của cháu ở Luân Đôn. Ông ấy nói mình thậm chí còn không tìm cách thuyết phục cháu rút khỏi vụ giao tiền vì biết rằng cháu đã quyết định”.

“Có lẽ cháu thông minh nếu làm theo lời khuyên của ông ấy”.

“Thế nhưng cô gái người Mỹ đó sẽ chết”, bà lắc đầu. “Không đâu, Gabriel, cháu đã làm đúng, cho dù người ta nói gì về cháu ở Luân Đôn và Amsterdam. Khi cơn bão qua rồi, họ sẽ suy nghĩ lại và phải cảm ơn cháu”.

“Cháu tin chắc là cô đúng đấy, Gilah”.

“Hãy đến ngồi với ông ấy. Cô nghĩ ông ấy hơi thất vọng. Không dễ gì chấp nhận việc mình già đi đâu”.

“Kể cho cháu nghe nào”.

Anh tự rót cho mình một ly rượu vang đỏ rồi mang ra ban công. Shamron ngồi trong một chiếc ghế sắt bên dưới mái bạt sọc, nhìn nước mưa nhỏ xuống từ lá cây khuynh diệp. Gabriel lấy điếu thuốc từ đầu ngón tay ông rồi quăng qua ban công xuống lối đi bộ ướt mưa.

Shamron nói. “Xả rác ở nước này là phạm luật đấy. Cậu đã ở đâu vậy?”.

“Ông biết mà”.

“Cậu định nói tôi cho người theo dõi cậu à?”.

“Tôi có ý gì đâu. Tôi biết ông đang cho người theo dõi tôi mà. Vì vậy, đó thật sự chỉ là một thông báo thôi”.

“Về nhà rồi, không có nghĩa là cậu đã an toàn đâu. Cậu có quá nhiều kẻ thù xung quanh – quá nhiều kẻ thù nên không thể nào làm việc bình thường trong một studio nhìn xuống những bức tường của Phố Cổ mà không có vệ sĩ”.

“Chiara sẽ không cho tôi làm việc trong nhà”. Gabriel ngồi xuống ghế cạnh Shamron. “Ông giận vì tôi làm trong một studio gần Phố Cổ hay ông giận vì tôi đang làm việc mà không phải làm cho ông nào?”.

Shamron cặm cụi đốt một điếu thuốc nữa mà không nói gì.

“Công việc phục chế cũng có tác dụng đấy, Ari. Lúc nào cũng có lợi, nó làm tôi quên”.

“Quên cái gì?”.

“Việc giết bốn người trong công viên Hyde Park. Giết một người trên sân của tu viện Westminster. Giết Ishaq trên cánh đồng ở Essex. Tôi sẽ tiếp tục chứ?”.

“Không cần thiết đâu”, Shamron nói. “Khi nào thì xong bức Rembrandt này? Tiếp theo đó là gì?”.

“Tôi may mắn còn sống đấy, Ari. Chỗ nào cũng thấy đau. Hãy để tôi lành lặn cái đã. Hãy để tôi hưởng thụ cuộc sống vài ngày trước khi ông bắt đầu kéo tôi trở lại Văn phòng”.

Shamron hút thuốc, nhìn mưa rơi trong im lặng. Là một cây cổ thụ tận tuỵ, ông đánh dấu thời gian trôi qua không phải bằng lễ hội của người Do Thái mà bằng nhịp điệu của vùng đất này – ngày mưa đến, ngày hoa dại bừng nở trong thung lũng Galilee, ngày đầu thu khi gió mát thổi trở lại. Đối với Gabriel, anh cứ tự hỏi mình sẽ còn chứng kiến bao nhiêu chu kỳ nữa.

“Đại sứ của chúng ta ở Luân Đôn nhận được một bức thư khá hài hước từ văn phòng Bộ Nội vụ sáng nay”, ông nói.

“Để tôi đoán nào”, Gabriel nói. “Họ muốn tôi làm chứng cho uỷ ban điều tra vụ bắt cóc và giải cứu Elizabeth Halton”.

Shamron gật đầu. “Chúng ta đã nói rõ cho người Anh rằng họ sẽ phải tự thực hiện cuộc điều tra mà không có sự hợp tác của chúng ta. Sẽ không có hành động lặp lại như việc làm chứng của cậu trước Quốc hội sau vụ ở Vatican. Cách duy nhất để cậu quay lại nước Anh là để nhận chức hiệp sĩ”, Shamron mỉm cười với chính mình. “Cậu có tưởng tượng được không?”.

“Đông Luân Đôn sẽ bùng cháy”, Gabriel nói. “Thế còn quan hệ của chúng ta với MI5 và MI6 thì sao? Họ sẽ không gặp khó khăn nếu tôi từ chối điều tra chứ?”.

“Thực ra còn ngược lại nữa kia. Ta đã liên lạc với lãnh đạo của cả hai cơ quan trên trong những ngày qua, họ đã nói rõ rằng điều cuối cùng họ muốn chính là để cậu ra làm chứng. Tiện thể, Graham Seymour cũng gởi lời hỏi thăm cậu”.

“Còn có một lí do hay ho nữa để tôi tránh xa Luân Đôn”, Gabriel nói. “Nếu đồng ý ra làm chứng vụ này, cuộc điều tra tự nhiên sẽ tập trung vào chúng ta và tội lỗi của người Israel. Nếu tôi tránh xa, điều đó có thể buộc họ đối diện với vấn đề thực sự”.

“Vấn đề nào?”.

“Luân Đôn – sào huyệt khủng bố”, Gabriel nói. “Họ đã cho phép thủ đô của mình trở thành mảnh đất nuôi dưỡng, thánh địa thiêng liêng và nơi trú chân an toàn cho những phần tử khủng bố Hồi giáo thuộc mọi thành phần. Đó là mối đe doạ cho tất cả chúng ta”.

Shamron gật đầu đồng ý, sau đó nhìn Gabriel. “Thế cậu còn làm gì ngoài việc lau chùi tranh Rembrandt rồi ở bên cạnh Leah ở núi Herzl?”.

“Tôi thấy những kẻ theo dõi nhỏ bé của ông đã báo cáo cho ông chi tiết rồi còn gì?””

“Đúng theo chỉ đạo”, Shamron nói. “Cô ấy thế nào?”.

“Lúc nào cô ấy cũng trong sáng”, Gabriel nói. “Rất trong sáng. Có khi cô ấy nhìn mọi thứ còn rõ ràng hơn tôi. Cô ấy lúc nào cũng vậy?”.

“Làm ơn cho tôi biết là cậu không định hoãn tiếp chứ”.

“Ngược lại đấy. Thế những người theo dõi của ông không cho ông biết việc tôi đang tìm nơi làm lễ cưới sao?”.

“Thật ra thì có. Tôi xin mạn phép được yêu cầu Shabak vạch ra kế hoạch an ninh khẩn cấp cho một đám cưới tầm cỡ như thế. Tôi e rằng yêu cầu sẽ cao đến nỗi có vẻ đây không giống đám cưới chút nào đâu”. Ông từ từ dụi thuốc. “Cậu có cần lời khuyên từ một ông già không?”.

“Tôi không cần gì hơn thế nữa”.

“Có lẽ cậu và Chiara nên xem xét tổ chức một buổi lễ nhỏ hơn và thân mật hơn”.

“Chúng tôi đã dự định thế”.

“Cậu đã nghĩ đến ngày nào trong đầu chưa?”.

“Gabriel nói cho ông biết.

“Tháng Năm sao? Sao phải chờ đến Tháng Năm? Cậu không học được gì từ vụ này sao? Cuộc sống quý giá lắm, Gabriel à, và cũng ngắn kinh khủng. Tôi có thể không còn sống đến Tháng Năm đâu”.

“Tôi e rằng ông sẽ chỉ cần phải ghé qua thôi mà, Ari. Chiara cần thời gian lên kế hoạch đón khách. Chúng tôi không thể nào tổ chức sớm hơn”.

“Kế hoạch thế nào? Kế hoạch gì? Cậu và tôi có thể thực hiện việc đó ngay chiều nay mà”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

96#
 Tác giả| Đăng lúc 28-11-2013 19:48:28 | Chỉ xem của tác giả
Chương 61
(tiếp theo)

“Đám cưới chứ có phải chiến dịch đâu, Ari”.

“Ai nói vậy?”.

“Chiara”.

“Tất nhiên đám cưới không phải là chiến dịch”, ông vịn tay lên thành ghế. “Chiara đã phải chịu đựng khá nhiều sự lung lay và vô lý ở phía cậu. Nếu là cậu, tôi sẽ tự lên kế hoạch đám cưới để làm cô ấy ngạc nhiên”.

“Cô ấy là người Do Thái gốc Ý đấy, Ari. Cô ấy nóng tính và không thích điều ngạc nhiên”.

“Tất cả phụ nữ điều thích những điều bất ngờ, anh chàng ngốc ạ”.

Gabriel phải thừa nhận là mình cũng thích ý tưởng đó. “Tôi sẽ cần giúp đỡ”, anh nói.

“Thế thì chúng tôi sẽ giúp cậu”.

“Giúp thế nào?”.

Shamron nói. “Thằng nhóc ngớ ngẩn”.

Đó là phía khuất của một nghi lễ bí mật, của những người làm những việc mà không ai muốn hay dám làm. Nhưng chưa bao giờ trong lịch sử nhiều biến động của Chiến dịch đặc biệt, họ lại lên kế hoạch cho một đám cưới, dĩ nhiên là một đám cưới thật sự kia.

Họ tập trung vào buổi sáng hôm sau ở phòng 456C, công sự ngầm của Gabriel tại đại lộ King Saul. Yaakov và Yossi, Dina và Rimona, Mordecai và Oded, Mikhail và Eli Lavon. Gabriel đi đến trước phòng dán một tấm ảnh Chiara lên bảng thông báo. “Mười ngày nữa, tôi sẽ cưới người phụ nữ này”, anh nói. “Đám cưới phải có mọi thứ cô ấy muốn nhưng cô ấy không được biết hay nghi ngờ thứ gì. Ta phải làm việc nhanh và không phạm sai lầm”.

Giống như tất cả những chiến dịch thực thụ, cuộc họp bắt đầu bằng việc thu thập thông tin tình báo. Họ lục tung những quyển tạp chí cưới của Chiara để tìm những dấu hiệu ý nghĩa và hỏi Gabriel tỉ mỉ về mọi thứ cô ấy đã từng nói với anh. Biết rằng những câu trả lời của anh không đầy đủ, Dina và Rimona lên lịch cho cuộc gặp ăn trưa bất ngờ với Chiara buổi chiều hôm sau ở một nhà hàng sành điệu của Tel Aviv. Họ trở về đại lộ King Saul khi đã chếch choáng hơi men nhưng có toàn bộ thông tin cần thiết để tiến hành.

Buổi sáng hôm sau, Gabriel và Chiara ở đường Narkiss bị đánh thức bởi một nhân viên từ phòng Nhân sự thông báo cho Chiara biết cô đã vượt mức báo động về sức khoẻ toàn diện. Người đàn ông từ phòng Nhân sự cho biết hôm đó sẽ có một buổi khám sức khoẻ. Cô có thể đến đại lộ King Saul ngay lập tức không? Không có việc gì tôt hơn để làm trong ngày, cô tuân theo yêu cầu và đến mười giờ cô trải qua một cuộc thăm khám kỹ lưỡng của hai bác sĩ trực thuộc văn phòng – một trong hai người chẳng phải là bác sĩ, mà là thợ may từ phòng Nhận diện. Ông ấy ít quan tâm đến những chuyện như huyết áp và nhịp tim mà quan tâm nhiều hơn đến chiều dài cánh tay, chân, cỡ hông và ngực. Cuối buổi chiều đó, cô vào phòng 456C hỏi Gabriel xem anh có phải rời phòng trong bộ quần áo chống đạn không. Gabriel nói không cần thiết.

Còn ba ngày nữa, mọi thứ điều đâu vào đấy trừ một người đặc biệt. Chiara. Trong một bước của chiến dịch này, Gabriel không thể nhờ ai khác ngoài bà Gilah Shamron, bà đã gọi điện cho Chiara cuối buổi tối hôm đó để thông báo họ có thể đến Tiberias tham dự buổi tiệc sinh nhật đầy bất ngờ của Shamron vào thứ bảy. Cô đồng ý yêu cầu của bà Gilah mà không bận tâm xem Gabriel có kế hoạch gì cuối tuần đó không.

Cô hỏi. “Ông ấy bao nhiêu tuổi rồi?”.

“Đó là một bí mật được nhà nước giữ kín, nhưng người ta đồn rằng ông ấy đã chiến đấu trong cuộc nổi dậy chống chính quyền La Mã”.

“Thế anh có biết ngày sinh của ông ấy rơi vào tháng ba không?”.

“Biết chứ, tất nhiên rồi”, anh trả lời vội vã.

Thực ra, đáng lẽ thời điểm ấy là cuối tháng tám và người cố gắng tổ chức bữa tiệc bất ngờ cho Shamron vẫn còn đi loạng choạng, nhưng Chiara không hề biết gì.

Trời mưa nặng hạt suốt tuần, một tình huống mà họ chưa hề dự kiến, nhưng đến giữa buổi sáng ngày thứ bảy, mặt trời lại nắng rực rỡ và không khí như vừa được rửa sạch. Mùi thông đá, hoa nhài và khuynh diệp lan toả khắp nơi. Họ dậy muộn và ăn sáng qua loa trên ban công rồi gói ghém vài thứ vào một chiếc túi ngủ qua đêm và khởi hành đi Galilee.

Gabriel lái xe xuống khu Bab al Wad đến đồng bằng duyên hải rồi lên hướng bắc đến thung lũng Jezreel. Họ dừng ở đó vài phút để đón Eli Lavon từ một ngôi nhà trên đỉnh Tel Megiddo sau đó tiếp tục đến khu vực Tiberias. Ngôi biệt thự màu mật của Shamron chỉ cách phía Bắc thành phố vài dặm, trên một vỉa đá nhìn xuống biển Galilee. Hai chục chiếc xe xếp thành đường thẳng, trong sân trước là chiếc Suburban của ngừơi Mỹ mang biển số ngoại giao. Adrian Carter và Sarah Bancroft đang đứng ở lan can của nhà Shamron, trò chuyện với Uzi Navot và Bella.

“Gilah không nói với em là Carter cũng đến”, Chiara nói.

“Có lẽ bà ấy đã quên nói”.

“Làm sao bà ấy lại quên nói chuyện Phó giám đốc CIA từ tận Washington đến đây? Còn Sarah đang làm gì ở đây thế?”.

“Gilah già rồi, Chiara à. Cho bà ấy nghỉ ngơi đi”.

Gabriel leo ra ngoài trước khi Chiara có thể nêu một câu hỏi khác, rồi rút chiếc túi ngủ qua đêm từ cốp xe ra và dẫn nàng lên những bậc thang. Gilah đang đứng trong sảnh khi họ vào trong. Những căn phòng lớn đã bị dời hết đồ nội thất và nhiều bàn tròn được xếp chỗ. Chiara nhìn vào cách bày trí trong khu vực và cách sắp đặt hoa, sau đó đi qua chỗ Gilah rồi bước lên bậc thềm, nơi đó có một trăm chiếc ghế màu trắng dựng thành dãy quanh một cái bục treo đầy hoa. Nàng cứ nhìn quanh, há hốc mồm rồi nhìn Gabriel.

“Chuyện gì đang diễn ra ở đây vậy?”.

Gabriel cầm chiếc túi rồi nói. “Anh sẽ mang cái này lên phòng của chúng ta”.

“Gabriel Allon, quay lại đây đi”.

Nàng vội đuổi theo anh xuống hành lang dẫn đến phòng của họ. Khi bước vào trong, nàng nhìn thấy chiếc váy cưới đặt trên giường.

“Chúa ơi, Gabriel, anh đã làm gì thế?”.

“Anh hy vọng là sẽ bù đắp được những lỗi lầm của anh”.

Nàng khoác tay anh, hôn anh rồi lấy bàn tay luồn qua tóc.

“Em bối rối quá. Em sẽ làm gì đây?”.

“Mọi người đã mang một nhà tạo mẫu tóc từ Tel Aviv đến đây. Một người rất giỏi”.

“Thế còn gia đình của em?”.

Anh nhìn đồng hồ. “Vài phút nữa họ sẽ đến”.

“Thế còn nhẫn”

Anh rút một chiếc hộp đựng trang sức từ túi áo khoác rồi mở ra.

“Chúng đẹp quá”, nàng xúc động nói. “Anh đã nghĩ ra mọi chuyện”.

“Đám cưới chính là chiến dịch”.

“Không phải đâu, anh ngốc quá”. Nàng vỗ vào tay anh đùa vui. “Thế buổi lễ diễn ra lúc mấy giờ?”.

“Bất cứ khi nào em muốn”.

“Thế mặt trời lặn lúc mấy giờ?”.

“Năm giờ tám phút”.

“Ta sẽ bắt đầu lúc năm giờ chín phút”. Nàng lại hôn anh. “Và đừng muộn nhé”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

97#
 Tác giả| Đăng lúc 28-11-2013 20:19:54 | Chỉ xem của tác giả
Chương 62

“Adrian Carter nói. “Anh và đồng đội của anh đã tổ chức một chiến dịch thật hay”.

“Chiến dịch nào?”.

“Tất nhiên là đám cưới này. Quá tệ là mọi chuyện ở Luân Đôn đã không trôi chảy như thế”.

“Nếu trôi chảy thì ta đã không cứu được Elizabeth Halton”.

“Thật đấy”.

Một người phục vụ tiến đến bàn của họ, thay cà phê mới cho Carter. Gabriel quay người nhìn về phía bức tường của Phố Cổ, đang lấp loá trong ánh mặt trời dịu nhẹ. Lúc đó là sáng thứ hai. Carter đã gọi điện thoại tới căn hộ của Gabriel lúc bảy giờ xem anh có rảnh để ăn sáng không. Gabriel đồng ý gặp anh ta ở đó, anh biết rõ rằng Adrian Carter đã không làm gì đối với cơ hội bị bỏ lỡ.

“Sao ông vẫn còn ở Jerusalem, Adrian?”.

“Về mặt chính thức, tôi vẫn còn ở đây để gặp chi nhánh CIA có lượng nhân viên hùng hậu của chúng tôi. Về mặt không chính thức, tôi ở lại để gặp anh”.

“Thế Sarah vẫn còn ở đây chứ?”.

“Hôm qua cô ấy đi rồi. Tội nghiệp, cô ấy phải đi máy bay thương mại”.

Carter nâng ly cà phê lên môi nhìn Gabriel một chút mà không uống. “Có chuyện gì xảy ra giữa hai người mà tôi nên biết không?”.

“Không có đâu, Adrian, không có chuyện gì giữa hai chúng tôi đâu, trong suốt chiến dịch này hay những chiến dịch vừa qua”. Gabriel khuấy ly sữa chua Israel của mình. “Có phải đó là lí do ông ở lại Jerusalem không? Để hỏi tôi có ngủ với một trong các nhân viên của ông không hả?”.

“Tất nhiên là không”.

“Thế tại sao ông lại ở đây thế, Adrian?”.

Carter đưa tay lên túi trên ngực chiếc áo ngắn tay của nhà Brooks Brothers, rút ra một phong bì trao cho Gabriel. Phía trước phong bì không có chữ gì nhưng khi lật qua, anh nhìn thấy chữ NHÀ TRẮNG in trên mép bằng chữ thường.

“Cái gì thế này? Thư mời tham dự tiệc ngoài trời ở Nhà Trắng sao?”.

“Là một bức thư đấy”, Carter nói. Sau đó nói thêm một câu có phần đầy tính mô phạm. “Từ Tổng thống Hoa Kỳ đấy”.

“Vâng, tôi biết rồi mà, Adrian. Chủ đề của bức thư là gì nào?”.

“Tôi không có thói quen đọc thư của người khác”.

“Đôi khi cũng nên chứ”.

“Tôi cho rằng Tổng thống viết thư cám ơn anh vì những gì anh đã làm ở Luân Đôn”.

“Có thể sẽ hữu ích nếu ông ấy nói trước công chúng cách đây một tháng, khi tôi còn đang xoáy trong gió bão”.

“Tin tôi đi, Gabriel. Nếu ông ấy nói thay cho anh, có thể anh còn gặp rắc rối nhiều hơn hiện nay. Những chuyện như thế này luôn bị thổi phồng. Và khi đó điều chúng ta nên làm nhất là không hành động gì cả”.

Một bóng mây bay qua che trước mặt trời, trong một lúc thời tiết hình như lạnh hơn vài độ. Gabriel mở thư đọc nhanh rồi nhét vào túi áo khoác.

“Nó nói gì thế?”.

“Chuyện riêng tư mà, Adrian, và nó vẫn còn riêng tư”.

“Anh tốt thế”, Carter nói.

“Thế ông cũng có một cái nữa chứ?”.

“Thư của Tổng thống à?”, Carter lắc đầu. “Tôi e là vị trí của mình hiện nay không còn quan trọng nhiều như trước nữa. Không thú vị sao? Chúng tôi giải cứu cho Elizabeth Halton và giờ thì bị bao vây”.

“Chuyện này cũng sẽ qua thôi mà, Adrian”.

“Tôi biết mà”, anh nói. “Nhưng trải qua chuyện này cũng không hề thú vị. Có một nhóm Thổ Nhĩ Kỳ trẻ ở Langley cho rằng tôi đã làm điệp vụ quá lâu. Họ nói tôi đã thua một bước. Họ nói lẽ ra tôi không nên đồng ý chuyển quá nhiều hoạt động sang cho cậu”.

“Thế ông có ý định gì không?”.

“Không đâu”, Carter nhấn giọng. “Thế giới là một nơi quá nguy hiểm cho bọn thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi có ý định ở lại cho đến khi chiến thắng được cuộc chiến chống khủng bố”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

98#
 Tác giả| Đăng lúc 28-11-2013 20:21:28 | Chỉ xem của tác giả
Chương 62
(tiếp theo)

“Hy vọng gia đình anh được trường thọ”.

“Ông tôi sống được tới một trăm lẻ bốn tuổi”.

“Thế còn Sarah? Dù sao thì cô ấy cũng bị tổn thương trong vụ này?”.

“Không đâu”, Carter đáp. “Chỉ vài người biết cô ấy có tham gia”.

Mặt trời lại ló ra từ phía sau những đám mây. Gabriel đeo chiếc kính ôm sát mặt còn Carter rút một chiếc phong bì thứ hai ra khỏi túi áo ngắn tay. “Còn đây là thư của Halton”, ông nói. “Tôi e là mình biết nó có gì bên trong”.

Gabriel rút ra một tờ giấy ngắn viết tay và một tờ séc mang tên Gabriel cho khoản tiền mười triệu đô la. Gabriel giữ bức thư và trao tấm séc cho Carter.

“Anh có chắc là mình không muốn nghĩ về chuyện này một cách cẩn thận không?”, Carter hỏi.

“Tôi không cần tiền của ông ấy, Adrian”.

“Anh có quyền được hưởng. Anh đã liều mạng sống để cứu con gái ông ấy – không phải một mà là hai lần”.

“Đó là việc của chúng tôi”, Gabriel nói. “Hãy nói với ông ấy rằng tôi cảm ơn nhưng tôi không nhận đâu”.

Carter để tờ séc lên bàn.

“Ông còn gì trong túi cho tôi nữa không, Adrian?”.

Carter nhìn phía những bức tường Phố Cổ. “Tôi có một cái tên”, anh nói.

“Sphinx hả?”.

Carter gật đầu. Sphinx.

Giọng của anh hạ thấp đến mức không nghe được. Hình như trước khi đến Israel dự lễ cưới của Gabriel. Carter đã trở lại miền Nam nước Pháp, nhưng không phải để giải trí mà là để tham gia vào một chiến dịch. Carter chưa có ngày nghỉ chính thức nào kể từ vụ 11/9. Mục tiêu chiến dịch này không ai khác ngoài Hoàng tử Rashid Bin Sultan, người đã tự đến khu Riviera ở Pháp tìm một chỗ đánh bài trong những sòng bạc Monaco. Vị Hoàng tử này chơi kém và thua nhiều và trở về sân bay ở Nice vào sáng sớm hôm sau trong tình trạng say ngủ, đó là điều mà một người khắt khe như Carter rất ghét. Mọi người thấy Carter và đội các sĩ quan bán quân sự của CIA thư giãn trong những khu vực xa hoa trên chiếc 747 dành riêng cho Hoàng tử. Carter đã đưa cho Hoàng tử, đang trong tâm trạng khá giận dữ, một hồ sơ của CIA ghi chi tiết về những tội lỗi của hắn – bao gồm cả việc ủng hộ tài chính cho al-Qeada, Carter đã trao cho gã Hoàng tử này một số điểm đến để lựa chọn. Ryadh hay vịnh Guantanamo, Cuba.

“Có vẻ giống như một nhiệm vụ mà ta sẽ làm”, Gabriel nói.

“Đúng vậy, việc này đáng làm, theo đúng kiểu Văn phòng của các anh”.

“Tôi cho rằng Hoàng tử đã chọn Ryadh làm điểm đến của mình”.

“Đó chính là bài khôn ngoan nhất mà gã Hoàng tử này đã từng chơi”.

“Chuyến đi về nhà làm hắn ta tốn bao nhiêu?”.

“Một cái tên”, Carter nói. “Vấn đề bây giờ là làm gì với cái tên này? Phương án một, ta làm việc với những người anh em Ai Cập và đưa gã này ra xét xử ở Mỹ. Công lý sẽ được tuân thủ nếu ta đi theo quy trình này nhưng với một cái giá đáng kể. Một vụ xét xử sẽ phơi bày mặt trái mối quan hệ của chúng ta với các cơ quan an ninh Ai Cập. Điều đó cũng làm cho chúng ta nặng gánh lo cho một tên tù nhân Thanh kiếm Allah khác, một gã mà bọn chúng luôn tìm cách mang ra khỏi chốn tù giam, do đó những việc làm tiếp theo của bọn chúng có thể đặt sinh mạng của người Mỹ vào chỗ nguy hiểm”.

“Và chúng ta không thể để cho điều này được phép xảy ra”.

“Ta không thể”, Carter đồng ý. “Do đó chúng ta có phương án thứ hai. Xử lí vấn đề một cách im lặng”.

“Biện pháp ưu tiên của chúng ta”.

“Đúng vậy”.

Gabriel chìa bàn tay ra. Carter cho tay vào túi lần nữa rồi rút ra một tờ giấy. Gabriel đọc rồi mỉm cười.

“Anh có thể làm cho hắn biến đi chỗ khác được không?”, Carter hỏi.

“Chuyện đó không thành vấn đề”, Gabriel nói. “Nhưng tôi e chúng ta sẽ phải rải một ít tiền khắp Cairo để làm chuyện này trở nên dễ dàng”.

Carter cầm tờ séc của Halton. “Ngần này có đủ không?”.

“Còn thừa. Nhưng tôi nên làm gì với số tiền thừa?”.

“Cứ giữ lấy”.

“Tôi có thể giết Hoàng tử không?”.

“Có lẽ để lần sau”, Carter nói. “Thêm cà phê không?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

99#
 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2013 17:59:28 | Chỉ xem của tác giả
Chương 63
Đảo Síp

Gabriel rời Jerusalem đi Síp ba ngày sau khi cưới. Chiara van nài anh hãy đưa cô theo cùng nhưng anh từ chối. Anh đã mất một người vợ vào tay kẻ thù và không có ý định mất thêm một người vợ nữa.

Anh vào nước này bằng hộ chiếu Israel mang tên Gideon Argov và cho các nhân viên hải quan Síp biết rằng mục đích chuyến đi của anh là nghỉ mát. Sau khi nhận chiếc xe thuê, chiếc Mercedes C-Class mà anh đã kiểm tra toàn bộ, anh khởi hành đi dọc bờ biển phía nam đến ngôi biệt thự trắng muốt cạnh bờ biển. Không rõ khi nào Wazir al Zayyat có thể xuất hiện, do đó Gabriel dừng nhanh ở một chợ làng mua đủ thức ăn cho ba ngày.

Thời tiết tháng ba chợt trở nên ấm áp chứ không lạnh lẽo như mọi năm, anh trải qua ngày đầu tiên thư giãn trên sân thượng nhìn xuống Địa Trung Hải, cảm thấy tội lỗi vì đã để Chiara ở lại Jerusalem. Đến ngày thứ hai, anh bồn chồn và cảm thấy chán chường, do dó anh lục lọi trên internet tìm một cửa hàng bán đồ nghệ thuật và phát hiện được một cửa hàng cách bờ biển vài dặm. Anh trải qua thời gian còn lại trong buổi chiều vẽ phác thảo căn biệt thự rồi cuối buổi chiều cùng ngày thứ ba, anh vẽ một bức tranh về biển bằng màu nước khá đẹp, lúc ấy anh thấy xe của Al Zayyat đang trên đường từ Larnaca tới.

Cuộc hội ngộ của họ diễn ra một cách vui vẻ dưới ánh nắng mát dịu trên sân thượng. Al Zayyat uống rượu còn Gabriel nhấm nháp ly nước khoáng có thêm chút chanh. Trong một thời gian dài, họ nói về những vấn đề chung của đất nước Ai Cập, nhưng khi mặt trời đang dẫn lặn xuống mặt biển, Gabriel gợi chuyện xoay quanh nguyên nhân thực sự tại sao anh yêu cầu Al Zayyat đến Síp. Cái tên do Adrian Carter trao cho anh ở Jerusalem đầu tuần đó. Khi nghe chuyện này. Al Zayyat ngồi vặn chặt chai whisky.

“Có lúc chúng tôi nghi ngờ vị giáo sư này”, anh nói. “Năm ngoái ông ta đã ở Paris lo viết một quyển sách ở một nơi gọi là Viện nghiên cứu Hồi giáo. Đó là một mặt trận nổi tiếng đối với các hoạt động thánh chiến, được Hoàng tử Rashid tài trợ một phần. Ông ta đã rời Paris sau ngày Giáng sinh rồi trở về Cairo, nơi ông ta tiếp tục nhiệm vụ giảng dạy tại đại học Mỹ”.

“Tôi cho rằng anh muốn cho ông Giáo sư giỏi giang này một kỳ nghỉ phép”.

“Một kỳ nghỉ vĩnh viễn”.

“Điều đó sẽ làm anh tốn kém lắm”.

“Tin tôi đi, Wazir – tiền bạc không phải là trở ngại”.

“Anh muốn làm chuyện này khi nào?”.

“Cuối mùa xuân”, anh nói. “Trước khi thời tiết trở nên quá nóng”.

“Phải đảm bảo công việc được thực hiện một cách sạch sẽ. Tôi không muốn anh gây lộn xộn cho thành phố của tôi”.

Một tiếng sau, Al Zayyat rời biệt thự với một chiếc vali chứa năm trăm ngàn đôla. Buổi sáng hôm sau, Gabriel đốt những bản vẽ phác thảo, màu nước và bay trở về nhà với Chiara.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

100#
 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2013 18:01:11 | Chỉ xem của tác giả
Chương 64
Cairo

Cái tên trong danh sách khách đặt trước khiến cho Katubi, trưởng bộ phận tiếp tân khách sạn Intercontinental ở Cairo cảm thấy ớn lạnh. Chắc chắn đã có một trục trặc trong hệ thống đặt chỗ trên máy tính, ông suy nghĩ khi nhìn vào cái danh sách đầy nghi hoặc ấy. Chắc chắn đó phải là một người khác có tên Herr Johannes Klemp. Chắc chắn ông ấy đã không quyết định quay lại đây để nghỉ ngơi. Chắc chắn đã có một sự hiểu lầm kinh khủng. Ông nhắc điện thoại gọi cho bộ phận đặt chỗ trước để kiểm tra xem vị khách này có yêu cầu đặc biệt gì không. Danh sách này dài và chi tiết đến nỗi cô gái mất ba phút mới đọc lại hết qua điện htoại.

“Ông ta định ở đây bao lâu?”.

“Một tuần”.

“Tôi biết phải làm gì rồi”.

Ông gác điện thoại, sau đó dành thời gian còn lại của buổi sáng để suy nghĩ nghiêm túc về chuyện nghỉ phép trong suốt một tuần. Cuối cùng, ông quyết định rằng hành động như thế là hèn nhát và đẩy sự khổ sở cho các đồng nghiệp. Do đó, lúc 3 giờ 30 phút chiều hôm đó, khi ông đứng giữa hành lang sáng bóng, tay để sau lưng, cằm ngước lên như một người lính bất khuất trước đội hành quyết, thì ngài Herr Klemp bước vào qua cửa xoay, mặc một bộ quần áo đen kiểu châu Âu, chiếc kính râm cài ngược trên mái tóc màu bạc. “Katubi!”, ông ta gọi lớn khi bước đến chỗ người giữ cửa nhỏ bé đang đứng vững chãi, với bàn tay chĩa ra như lưỡi lê.

“Tôi đang mong là ông vẫn còn ở đây”.

“Có những chuyện về Cairo không bao giờ thay đổi, ngài Herr Klemp ạ”.

“Đó là điều tôi yêu thích ở chỗ này. Nó làm ta không thể không trở lại, phải không nào?”.

“Cảm ơn ngài”, ông Katubi nói. “Nếu điều gì tôi có thể làm để ngài ở lại đây vui hơn, xin đừng ngại nói ra”.

“Tôi không ngại phải nói đâu”.

“Tôi hiểu”.

Ông Katubi biết mình và đám nhân viên sẽ phải chuốc lấy những lời than phiền, đả kích và những lời thuyết giáo không dứt về tình trang bất lực của người Ai Cập. Nhưng trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồi sau khi Herr Klemp đến, Katubi hiểu rằng gã người Đức đó đã hoàn toàn thay đổi. Phòng ở của ông ta – một phòng đơn bình thường nằm đúng giữa sườn phía Bắc toà nhà nhìn xuống quảng trường Tahrir và sân trường Đại học Hoa Kỳ đã được ngài Klemp ví như thiên đường trên mặt đất. Thức ăn ông ta đặt là loại cao lương mĩ vị. Loại phục vụ mà ông ta yêu cầu cũng thuộc loại độc nhất vô nhị. Buổi sáng, khi thời tiết còn mát, ông ta đi ngắm cảnh, rồi ông ta dành cả buổi chiều thư giãn bên hồ bơi. Đến chiều tối mỗi ngày, ông ta nghĩ ngơi yên tĩnh trong phòng. Ông Katubi nóng lòng mong được nhìn thấy một Herr Klemp già cỗi, người đã nhiếc móc những cô phục vụ phòng vì đã dọn giường cho ông ta không đúng cách hay mắng mỏ nhân viên phục vụ vì đã làm hỏng quần áo như mọi khi. Nhưng vị khách hàng mãn nguyện này có vẻ thích sự im lặng.

Lúc 6 giờ 30 phút ngày áp chót trong lịch lưu trú, ngài Herr Klemp xuất hiện trong hành lang, chuẩn bị ăn tối. Ông yêu cầu Katubi xếp cho mình một bàn ở khu Zamaleklúc 8 giờ, sau đó ông ta đi nhanh ra cửa xoay rồi biến mất trong ánh hoàng hôn Cairo. Katubi nhìn ông ta bước đi, sau đó bước đến chỗ điện thoại mà không biết rằng mình sẽ không bao giờ gặp lại Herr Klemp nữa.

Chiếc xe hơi Mercedes màu bạc đỗ lại trên đường Muhammad, trong tầm mắt của nhân viên bãi đỗ xe của Đại học Hoa Kỳ. Mordecai ngồi bình tĩnh sau tay lái. Mikhail ngồi cạnh anh ở ghế dàng cho hành khách phía trước, gõ nhịp ngón tay lên đùi với vẻ hồi hộp. Gabriel ngồi vào ghế sau lẳng lặng đóng cửa. Mikhail cứ tiếp tục gõ ngón tay dù Gabriel đã bảo dừng.

Năm phút sau, Mikhail nói. “Anh chàng của cậu kìa”.

Gabriel nhìn một người đàn ông Ai Cập người mảnh khảnh, cao ráo mặc quần áo kiểu Tây phương đưa vài đồng pi-at cho người phục vụ ở Nubian rồi ngồi vào sau tay lái chiếc Fiat. Ba mươi giây sau, ông ta phóng xe qua chỗ họ hướng đến quảng trường Tahrir. Đèn giao thông ở bên cạnh quảng trường chuyển sang màu đỏ. Chiếc Fiat dừng lại. Sphinx là một người cẩn thận.

“Hành động đi”, Gabriel nói.

Mikhail đưa cho Gabriel bộ điều khiển kích nổ. “Anh chắc là mình không cần hắn chứ?”.

“Cứ hành động đi Mikhail – trước khi đèn đổi màu”.

Mikhail nhấn nút điều khiển. Một lúc sau, bộ thuốc nổ tập trung giấu bên trong chiếc gối tựa đầu nổ tung trong ánh chớp loá màu trắng. Mikhail lại bắt đầu gõ ngón tay. Mordecai vào số rồi hướng xe về phía bán đảo Sinai.

Hết
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách