Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Hoả Thần | Daniel Silva (Hoàn + Ebook)

[Lấy địa chỉ]
21#
 Tác giả| Đăng lúc 26-12-2013 19:58:01 | Chỉ xem của tác giả
Cuộc tấn công đẫm máu bắt đầu tại chính nơi hắn được huấn luyện. Trong chuyến thăm chính thức đến Cairo, Thủ tướng Gioócđan đã bị ám sát tại sảnh khách sạn Sheraton. Nhiều cuộc tấn công khác liên tiếp nổ ra. Xe hơi của đại sứ Gioócđan bị phục kích tại Luân Đôn. Máy bay của Gioócđan bị tấn công và các hãng hàng không của Gioócđan lần lượt bị đánh bom. Ở Bonn, năm nhân viên tình báo người Gioócđan đã bị giết hại trong hầm chứa của một căn nhà.

Sau khi trả đũa Gioócđan xong, Sabri quay sang những kẻ thù thực sự của người dân Palestine, những kẻ theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái của Israel. Tháng 5 năm 1972, tổ chức Tháng Chín Đen đã cướp máy bay phản lực của hãng hàng không Sabena, buộc nó hạ cánh ở sân bay Lod, Israel. Vài ngày sau đó, dưới sự chỉ đạo của tổ chức Tháng Chín Đen, những kẻ khủng bố từ lực lượng Hồng Quân của Nhật tấn công hành khách tại sảnh đến của sân bay Lod với súng máy tự động và lựu đạn, làm thiệt mạng 72 người. Điện khẩn được gửi đến những quan chức cấp cao Israel và những quan chức chính trị Do Thái khắp lãnh thổ châu Âu.

Sabri vẫn liên tục giành chiến thắng. Rạng sáng ngày 5 tháng 9 năm 1972, hai năm sau ngày bị trục xuất khỏi Gioócđan, sáu tên khủng bố Palestine đã leo rào vào khu vực Olympic tổ chức ở Munich và đột nhập vào căn hộ tại Connollystrasse 31, nơi đón tiếp những thành viên của đội Olympic Israel. Hai người Israel bị giết, chín người khác bị bắt làm con tin. Hai mươi bốn giờ sau đó, trong khi 900 triệu người trên toàn thế giới đang mải mê theo dõi những trận cầu thì chính phủ Đức phải đi đàm phán với bọn khủng bố yêu cầu thả những con tin Israel. Thời hạn thương lượng đã hết. Vào lúc 10 giờ 10 phút tối, hai chiếc trực thăng chở bọn khủng bố và những con tin cất cánh từ sân bay Furstenfeldbruck. Kế hoạch giải cứu con tin gấp rút của chính phủ Tây Đức lâm vào bế tắc ít phút trước khi hạ cánh. Toàn bộ 9 con tin đã bị ám sát bởi những thành viên của tổ chức Tháng Chín Đen.

Niềm vui tràn ngập thế giới Arập. Sabri al-Khalifa, kẻ chỉ đạo hành động trong một căn hộ bí mật ở Đông Đức, được chào đón như một anh hùng ngay khi trở về Beirut. “Cậu đúng là con trai của ta”. A’one đã nói thế khi ông vòng tay ôm lấy Sabri. “Cậu đúng là con trai ta”.

Ở Tel Aviv, Thủ tướng Golda Meir hạ lệnh cho lãnh đạo cơ quan tình báo phải tiêu diệt toàn bộ tổ chức Tháng Chín Đen để trả thù cho 11 nạn nhân đã thiệt mạng ở Munich. Với biệt danh Wrath of God, tổ chức này do Ari Shamron, người đã từng được giao nhiệm vụ kết liễu trùm khủng bố khát máu Shaikh Asad năm 1948, chỉ huy. Trong vòng 25 năm, đây là lần thứ hai Shamron được giao lệnh giết một người đàn ông mang họ al- Khalifa.

Dina rời căn phòng và khuất dần vào bóng tối, nhưng vẫn tiếp tục phần còn lại của câu chuyện, như thể không hay biết Gabriel đang ngồi đối diện phía cuối bàn, chỉ cách cô 3m.

“Lần lượt từng tên trong tổ chức Tháng Chín Đen bị truy sát và thủ tiêu bởi đội Wrath of God của Shamron. Tổng cộng 12 tên bị giết bởi những tay sát thủ của Văn phòng, nhưng Sabri al-Khalifa, kẻ Shamron muốn loại trừ nhất thì vẫn nhởn nhơ ngoài tầm tay ông. Thậm chí hắn còn đáp trả. Hắn giết một nhân viên của Văn phòng ở Madrid. Hắn tấn công tòa đại sứ Israel ở Bangkok và ám sát Đại sứ người Mỹ ở Xu-đăng. Những cuộc tấn công của hắn ta ngày càng trở nên không thể đoán trước được, cũng giống như tính cách của hắn vậy. A’one đã không thể tiếp tục dối trá về việc không hề dính dáng gì đến tổ chức Tháng Chín Đen nữa, khi mọi sự chỉ trích đều đổ lên ông, thậm chí từ cả những người đã từng ủng hộ ông. Vì dẫu Sabri đã gây nhiều cản trở cho tiến trình hòa bình, thế mà A’one vẫn luôn bao bọc hắn”.

Dina ngưng lại và nhìn Gabriel. Dưới ánh sáng hắt ra từ màn hình máy chiếu, khuôn mặt anh không chút cảm xúc. Mắt anh dán vào đôi bàn tay đang nắm chặt trên bàn.

“Anh có muốn kể đoạn kết của câu chuyện này không?”, cô hỏi.

Gabriel vẫn không rời mắt khỏi đôi bàn tay mình trước khi tiếp lời Dina.

“Shamron được mật báo rằng Sabri có quan hệ với một cô gái ở Paris, một nhà báo phía cánh tả tên là Denis. Cô nàng vẫn một mực tin rằng hắn là một nhà thơ Palestine và là kẻ tự do. Sabri hoàn toàn giấu nhẹm chuyện hắn đã có vợ và một đứa con. Shamron định lợi dụng cô ta nhưng ông đã từ bỏ ý nghĩ đó. Có vẻ đây chỉ là một cô gái ngây thơ tin vào tình yêu thực sự với Sabri. Sau đó, chúng tôi cho người đến Paris để theo dõi cô ta. Một tháng sau, Sabri xuất hiện”.

Anh dừng lại và ngước nhìn màn hình.

“Hắn đến căn hộ của cô ta lúc nửa đêm. Trời quá tối nên khó mà nhận diện được hắn. Vì thế Shamron mạo hiểm quyết định đợi cho đến khi có thể nhìn hắn rõ hơn. Bọn họ “vui vẻ” với nhau cho đến xế trưa, rồi đi ăn ở một quán cà phê trên đại lộ Germain. Đó là lúc chúng tôi chụp được bức ảnh này. Sau bữa trưa, chúng quay về căn hộ. Trời vẫn còn sáng, nhưng Shamron yêu cầu cứ để hắn đi”.

Gabriel bỗng nhiên im lặng và một lần nữa anh nhìn chằm chằm vào hai bàn tay mình. Đôi mắt anh nhắm hờ trong chốc lát.

“Tôi theo sát bọn chúng. Hắn vòng tay ôm eo cô ả, những ngón tay nằm gọn trong túi quần sau của cô ta. Còn tay phải hắn thì nằm trong túi áo khoác. Đó là nơi cất giữ khẩu súng. Hắn có quay lại và nhìn thấy tôi, nhưng rồi vẫn tiếp tục bước đi. Bọn họ đã uống hai chai rượu vang cho bữa trưa và tôi nghĩ có lẽ lúc đó phán đoán của hắn không còn nhanh nhạy nữa”.

Thêm một khoảng lặng khác, rồi sau khi liếc nhanh nhìn khuôn mặt của Sabri, anh lại trầm tư nhìn vào hai bàn tay mình. Khi Gabriel bắt đầu nói tiếp, giọng nói của anh có chút thờ ơ như thể anh đang mô tả chiến công của ai khác vậy.

“Chúng dừng lại ở cổng. Denis đã say mèm và cười vang. Cô ta nhìn xuống ví, bắt đầu lục tìm chìa khóa. Sabri hối thúc cô. Hắn ta lại muốn vui vẻ với cô ả lần nữa. Đáng ra tôi đã có thể giết chết hắn ở đó, nhưng vì có quá nhiều người trên đường nên tôi đi chậm lại và đợi cô ta tìm ra cái chìa khóa chết tiệt đó. Tôi bước ngang qua chúng khi cô ta tra chìa khóa vào ổ. Sabri nhìn tôi một lần nữa và quay mặt đi. Chúng bước vào trong hành lang. Tôi quay người lại giữ cánh cửa trước khi nó kịp đóng lại. Lúc đó Sabri và cô gái đang ở giữa khoảng sân nhỏ. Hắn nghe thấy tiếng bước chân tôi và quay người lại. Bàn tay hắn thọc ngay vào túi áo khoác và tôi có thể nhìn thấy báng súng của hắn. Sabri đã mang theo khẩu Stechkin. Đó là món quà từ một người bạn ở KGB . Tôi vẫn chưa móc súng của mình ra. Chúng tôi gọi đó là quy tắc của Shamron. Ông ta thường nói rằng “Chúng ta không cần phải đi loanh quanh trên đường với khẩu súng trên tay như những tên găng-xtơ”. Ông cũng hay dặn tôi rằng. “Chỉ một giây thôi, Gabriel. Đó là tất cả những gì cậu có. Một giây thôi. Chỉ có những tay súng thiện xạ mới rút súng và bắn trúng mục tiêu được trong một giây”.

Gabriel lướt mắt toàn bộ căn phòng và chăm chú nhìn từng thành viên trong đội một lúc trước khi tiếp tục câu chuyện.

“Ổ đạn của khẩu súng Beretta có 8 viên, nhưng tôi phát hiện ra rằng nếu tôi nén những viên đạn thật chặt, tôi có thể dồn được 10 viên. Sabri còn chưa kịp thủ súng. Khi hắn đang quay người lại để nhìn thì tôi đã nổ súng rồi. Chính vì thế tầm nhìn của hắn bị hạn chế - tôi nghĩ viên đạn đầu tiên và viên thứ hai trúng tay trái của hắn. Tôi chồm tới trước và quật ngã hắn. Cô gái la thất thanh, lao vào đánh tôi từ phía sau bằng túi xách của cô ta. Tôi bắn hắn 10 phát rồi mở ổ đạn và nhét viên đạn dự phòng vào. Chỉ có một băng đạn duy nhất, và đây là viên đạn thứ mười một. Mỗi viên đạn ghim vào đầu hắn là để trả thù cho một người dân Do Thái đã bị băng đảng của Sabri giết hại tại Munich. Tôi đặt thẳng nòng súng vào tai hắn và bắn. Cô gái quỳ sụp xuống bên thi thể hắn và kêu gào tôi là kẻ giết người. Tôi quay trở lại hành lang và bước ra đường. Một chiếc xe phóng đến. Tôi leo lên phía sau”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
 Tác giả| Đăng lúc 26-12-2013 20:01:03 | Chỉ xem của tác giả
Chỉ có Yaakov, người đã từng chứng kiến những hành động giết người trong Vùng bị chiếm đóng, là dám phá vỡ không khí im lặng đang bao trùm cả căn phòng. “Vậy Asad al-Khalifa và con trai của hắn, Sabri có liên hệ gì với những việc xảy ra ở Rome?”

Gabriel nhìn Dina, ánh mắt anh cũng hàm chứa câu hỏi tương tự. Dina lấy bức ảnh của Sabri ra và thay bằng một bức ảnh của Khaled tại đám tang cha hắn.

“Khi nghe tin chồng mình bị giết ở Paris, Rima đã cắt cổ tay tự tử trong phòng tắm ở khu Beruit. Khaled phát hiện thi thể mẹ mình trong bồn tắm đầy máu. Và rồi hắn trở thành một đứa trẻ mồ côi, cả cha mẹ đều bị giết hại, đại gia đình bị phân tán đi tứ phương. A’one đã nhận hắn làm con nuôi và sau đám tang, Khaled biến mất”

“Vậy hắn đi đâu?”. Yossi hỏi.

“A’one nhận thấy ở đứa trẻ có những tính cách có thể có lợi cho cuộc chiến khủng bố và phải bảo vệ nó bằng mọi giá. Chúng tôi nghĩ rằng hắn ta đã đưa nó đến châu Âu dưới một cái tên giả để sống với một gia đình lưu vong giàu có người Palestine. Tất cả những gì chúng tôi biết là trong vòng 25 năm qua, Khaled al-Khalifa chưa hề xuất hiện. Cách đây 2 năm tôi bàn với Lev mở một cuộc điều tra bí mật về hắn. Nhưng tôi không tài nào tìm ra tung tích của hắn. Cứ như thể sau đám tang, hắn bốc hơi trong không khí vậy”. Gabriel quay sang Yossi. “Vậy giả thuyết của cô là gì?”. “Tôi tin rằng A’one đã chuẩn bị cho hắn nối bước theo người cha và cả ông nội tiếng tăm của hắn. Tôi tin rằng hắn đang bắt đầu hành động”.

“Tại sao?”

“Tôi tin rằng A’one đã can thiệp vào chuyện này, và ông ta đang làm điều đó theo cách duy nhất của mình, đó là bạo lực và khủng bố. Ông ta sử dụng Khaled như một thứ vũ khí”.

“Vẫn chưa có cơ sở”. Yaakov nói. “Đây đơn thuần chỉ là cuộc tấn công của một nhóm khủng bố nào đó ở châu Âu nhằm vào chúng ta. Chúng ta không thể mất thời gian đi tìm kiếm một bóng ma được”.

Dina đặt một bức ảnh mới lên máy chiếu. Đó là bức ảnh một tòa nhà đổ nát.

“Buenos Aires, năm 1994. Một vụ đánh bom xe tải đã san bằng trung tâm cộng đồng người Do Thái vào bữa ăn trưa của ngày lễ Shabbat. 87 người chết. Không lực lượng nào đứng ra chịu trách nhiệm”.

Một bức ảnh khác, một tòa nhà tan hoang hơn.

“Istanbul, 2003. Hai quả bom gài trong xe hơi đồng thời phát nổ bên ngoài nhà thờ chính của thành phố. 28 người chết. Cũng không bên nào đứng ra chịu trách nhiệm”.

Dina quay về phía Yossi và nhờ anh bật đèn lên.

“Cô nói cô có bằng chứng chứng minh Khaled liên quan đến Rome”. Gabriel nói, nheo mắt vì ánh sáng đột ngột. “Nhưng cô chưa đưa ra được gì ngoài sự phỏng đoán”.

“Tôi có chứng cứ, Gabriel à”.

“Vậy mối liên hệ là gì?”

“Beit Sayeed”.

Họ khởi hành từ đại lộ King Saul trong một toa xe tải của Văn phòng vài phút trước bình minh. Vì cửa sổ toa xe được gắn bằng những tấm kính sẫm màu và chống đạn, nên dù mặt trời đã lên cao nhưng bên trong vẫn tối đen. Ngay khi họ đến Petah Tikvah, mặt trời đang ló dạng phía ngọn đồi Judean. Đó là vùng ngoại ô hiện đại của Tel Aviv với những ngôi nhà lớn và bãi cỏ xanh ngắt. Nhưng nhìn qua tấm kính sậm màu của toa xe, hình ảnh hiện về trong tâm trí Gabriel chỉ là những căn nhà đá trước kia và cuộc chống chọi của dân định cư từ Nga trước cuộc thảm sát của Sheikh Asad và đội quân thánh chiến của hắn.

Phía xa Petah Tikvah mở ra một vùng thảo nguyên bao la rộng lớn. Dina hướng dẫn tài xế đi vào đường hai chiều ven con đường quốc lộ mới xây. Họ chạy khoảng vài dặm rồi rẽ vào một đường mòn bẩn thỉu giáp ranh với một vườn cây ăn trái mới trồng.

“Ở đây”, Dina đột nhiên nói. “Dừng ở đây”.

Chiếc xe chạy vòng rồi dừng lại. Dina bước xuống và tiến nhanh vào bên trong vườn cây. Gabriel bước theo sau, Yossi và Rimona đi hai bên, còn Yaakov đi phía sau. Họ đi đến cuối vườn cây. Cứ khoảng 1m lại có một hàng cây được trồng một cách ngay ngắn. Xen lẫn giữa chúng là các bụi cỏ dại màu xanh. Dina dừng lại và quay mặt về phía mọi người.

“Chào mừng đến Beit Sayeed”, cô nói

Cô ra hiệu cho mọi người tiến lên phía trước. Rất dễ để nhận ra rằng họ đang đứng giữa tàn tích của một ngôi làng. Những tàn tích ấy vẫn còn hiển hiện rõ rệt trên nền đất xám: những túp lều tranh, bức tường đá, một quảng trường nhỏ và suối nguồn bao quanh. Gabriel nhận thấy nó rất giống với nhiều ngôi làng ở thung lũng Jezreel Valley và Galilee. Dù những người chủ mới của khu đất cố phá hủy những ngôi làng Arập nhưng vết tích đó vẫn còn lưu lại.

Dina dừng lại kế bên suối và mọi người tập trung xung quanh cô. “Vào ngày 18/4/1948, khoảng 7 giờ tối, một toán quân của Palmach đã bao vây Beit Sayeed. Sau một hồi đọ súng, những tay lính Arập bỏ chạy, để lại ngôi làng không sức chống đỡ. Khung cảnh hỗn loạn xuất hiện khắp nơi. Và tại sao họ lại không còn sức chống cự? Ba ngày trước đó, hơn một trăm cư dân ở Deir Yassin đã bị giết bởi những thành viên của băng nhóm Irgun và Stern Gang. Dĩ nhiên là quân đội Arập ở Beit Sayeed không đời nào chịu một cái chết tương tự như vậy. Có lẽ họ không mất nhiều thời gian để đóng gói đồ đạc và bỏ trốn. Khi ngôi làng bị bỏ hoang, người Palmach đã cho phá hủy những ngôi nhà”.

“Vậy mối liên hệ với Rome là gì?”. Yaakov nôn nóng hỏi.

“Daoud Hadawi”.

“Ngay khi Hadawi được sinh ra, nơi này đã bị xóa sổ khỏi bản đồ thế giới”.

“Đúng thế”. Dina nói. “Hadawi được sinh ra trong trại tị nạn Jenin, nhưng gia đình hắn xuất thân ở đây. Bà của hắn, cha hắn cùng những người cô, chú và anh em họ của hắn đã trốn khỏi Beit Sayeed trong tối ngày 18/4/1948”.

“Vậy ông hắn thì sao?”. Gabriel hỏi.

“Ông ta bị giết vài ngày trước đó, gần Lydda. Anh thấy đấy, ông của Daoud Hadawi là một trong những thuộc hạ thân tín của Sheikh Asad. Đó là người đã bảo vệ Sheikh vào cái đêm bị Shamron giết. Hắn ta cũng là người mà Shamron đã đâm trước khi đột nhập vào nhà”.

“Tất cả chỉ có thế thôi à?”. Yaakov hỏi.

Dina khẽ lắc đầu. “Hai cuộc nổ bom ở Buenos Aires và Istanbul diễn ra vào ngày 18/4 lúc 7 giờ tối”.

“Lạy Chúa”. Rimona lầm bầm.

“Còn có một điều nữa”. Dina nói, quay về phía Gabriel. “Cái ngày anh giết Sabri ở Paris, anh nhớ chứ?”

“Khoảng đầu tháng 3” Gabriel nói, “nhưng tôi không nhớ chính xác ngày nào”.

“Đó là ngày 14/3”. Dina nói.

“Cùng ngày với sự kiện ở Rome”. Rimona nói.

“Chính xác”. Dina nhìn xung quanh những dấu vết còn lại của ngôi làng cũ. “Nó bắt đầu ở chính đây trong Beit Sayeed hơn 50 năm qua. Đó là Khaled người đã chỉ huy Rome và hắn ta sẽ tấn công chúng ta lần nữa trong 28 ngày tới”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
 Tác giả| Đăng lúc 26-12-2013 20:02:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8

VEN AIX-EN PROVENCE, PHÁP

“Thưa Giáo sư, em nghĩ có lẽ chúng ta đã tìm thêm được một cái nữa rồi”.

Paul Martineau đang bò lồm cồm trong cái hầm sâu hun hút, chợt quay đầu lại và tìm nơi phát ra giọng nói làm đứt quãng công việc của mình. Đập vào mắt anh ta là dáng vẻ quen thuộc của Yvette Debré - cô sinh viên cao học trẻ trung tự nguyện tham gia cuộc đào xới này. Dưới ánh nắng vàng rực rỡ của vùng Provence hắt từ phía sau, cô chỉ là một chiếc bóng bé nhỏ. Đối với Martineau, cô như một tác phẩm được che đậy một cách vô cùng khéo léo. Mái tóc ngắn đen tuyền, khuôn mặt hơi góc cạnh hao hao đường nét của một chàng thanh niên. Chỉ khi ngắm nhìn thân hình cô - một bầu ngực đầy đặn, vòng eo thon thả, và một cái hông nở nang thì anh ta mới thực sự bị hấp dẫn. Anh ta đã thám hiểm cơ thể cô bằng đôi tay điêu luyện của mình, tìm đến cả những nơi sâu kín nhất, những chỗ làm cô vui thích và chạm cả vào nỗi đau của những vết thương cũ. Không một ai trong cuộc khai quật này nghi ngờ mối quan hệ thầy trò của họ. Paul Martineau rất giỏi trong việc giữ bí mật.

“Ở đâu?”

“Phía sau nhà thờ”.

“Thật hay bằng đá?”

“Bằng đá”.

“Nó như thế nào?”

“Giáo sư ra xem đi”.

Martineau đứng dậy. Anh ta chống hai tay lên miệng hầm chật chội, đẩy mạnh vai và trồi lên mặt đất. Anh ta phủi nhẹ lòng bàn tay dính đầy đất đỏ vùng Provence và mỉm cười với Yvette. Trông anh ta vẫn như mọi ngày với chiếc quần jeans dày cộm đã bạc màu và đôi ủng da lộn khá hợp mốt so với một số nhà khảo cổ khác. Anh ta mặc chiếc áo thun màu xám tro với chiếc khăn màu đỏ thẫm được thắt thành nơ. Tóc đen nhánh, xoăn tít, mắt to nâu thẳm. Có đồng nghiệp nói với Martineau rằng khuôn mặt anh ta phảng phất đường nét của tất cả các dân tộc đã từng đến cai trị vùng Provence này, người Celto và người Pháp cổ, người Hy Lạp, người La Mã, người Gô-tích, người Giéc-manh, và người Arập. Không thể chối cãi là anh ta khá điển trai. Yvette Debré không phải là cô học viên cao học đầu tiên ngưỡng mộ và gục ngã trước ngài Giáo sư này.

Thực tế, Martineau là Giáo sư thỉnh giảng môn khảo cổ học tại trường đại học danh tiếng Aix Marseille III, vì anh ta dành hầu hết thời gian ở khu khai quật. Đồng thời anh ta còn là chuyên gia tư vấn cho hơn hàng chục bảo tàng khảo cổ nằm rải rác khắp miền Nam nước Pháp.cay. Am hiểu chuyên môn một cách sâu sắc trong lĩnh vực lịch sử tiền La Mã ở Provence, anh ta được đánh giá là một trong những nhà khảo cổ ưu tú nhất ở Pháp thời ấy, dù anh ta chỉ mới ở tuổi 35. Luận án gần đây nhất của anh ta về sự sụp đổ của đế chế Liguria ở Provence được xem là chuẩn mực. Hiện tại, anh ta đang thương thuyết với một nhà xuất bản Pháp để phát hành tác phẩm về lịch sử cổ đại của vùng trên một quy mô lớn.

Sự thành đạt, đàn bà và những tin đồn về của cải khiến anh ta bị ganh ghét và trở thành đề tài đàm tiếu trong giới khảo cổ. Tuy hiếm khi nói về đời tư của mình, nhưng Martineau lại không hề che giấu nguồn gốc lai lịch. Người cha quá cố của anh ta, Henri Martineau, vừa là nhà kinh doanh vừa là nhà ngoại giao, nhưng ở cả hai lĩnh vực trên ông đều thất bại thảm hại. Sau cái chết của mẹ mình, Martineau đã bán ngôi nhà rộng lớn của gia đình ở Avignon cùng cơ ngơi thứ hai ở vùng ngoại ô Vaucluse. Anh ta sống thoải mái từ dạo đó. Anh ta tậu một căn hộ rộng rãi gần Đại học Aix, một căn biệt thự ở làng Lubéron của Lacoste và một chỗ trú chân nhỏ tại Montmartre ở Paris. Khi được hỏi tại sao lại chọn ngành khảo cổ học, anh ta trả lời rằng mình bị mê hoặc bởi sự ra đời, xuất hiện của các nền văn minh cổ đại và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chúng. Người mới tiếp xúc cảm nhận trong con người anh ta bản tính cố chấp và một sức mạnh đang bị dồn nén. Ít nhất, nó cũng đã thể hiện qua công việc đào bới quá khứ của anh ta.

Martineau theo Yvette xuyên qua mê lộ của các đường hào khai quật. Nằm trên đỉnh một ngọn núi nhìn xuống khu vực đồng bằng rộng lớn của dãy Chaine de l’Étoile, công trình này là một pháo đài trên đồi, hay còn gọi là oppidum, được xây dựng bởi liên minh bộ tộc Celto-Liguria hùng mạnh, gọi chung là Salyes. Những phát hiện khai quật ban đầu cho thấy pháo đài này gồm hai khu vực riêng biệt nhau, người ta cho rằng một khu vực dành cho giới quý tộc Celto và khu vực còn lại là của tầng lớp thứ dân Ligurian. Nhưng Martineau lại đưa ra một giả thuyết mới. Một khu vực tồi tàn hơn vừa được phát hiện hoàn toàn trùng khớp với nơi diễn ra cuộc chiến giữa người Liguria và người Hy Lạp gần Mác-xây. Nhờ cuộc khai quật này mà Martineau đã chứng minh được rằng khu vực đó trước đây chính là một trại tỵ nạn của thời kỳ đồ sắt.

Rồi anh ta bắt đầu tìm kiếm câu trả lời cho ba câu hỏi: Tại sao pháo đài trên đồi này bị bỏ hoang chỉ mới sau một trăm năm? Anh ta tìm thấy khá nhiều đầu lâu gần nhà thờ, gồm cả đầu lâu thật và đầu lâu được trát vào đá. Chúng có ý nghĩa gì? Đó đơn thuần chỉ là chiến tích của người man rợ thời kỳ đồ sắt hay là một phong tục thờ cúng truyền thống nào đó của người Celto? Martineau cho rằng chính việc trát đầu lâu vào vách đá đã khiến pháo đài nhanh chóng bị sụp đổ. Bởi đầu lâu không phải là một vật liệu tốt cho ngành xây dựng. Vì vậy anh ta yêu cầu mọi thành viên trong đội phải thông báo khi phát hiện thêm bất kỳ một cái đầu lâu nào nữa - và đó cũng là lý do vì sao anh ta đích thân quản lý khu vực đào xới này. Kinh nghiệm xương máu đã dạy anh ta rằng không được bỏ sót bất kỳ một manh mối nào dù lớn hay nhỏ. Ý nghĩa của đầu lâu đó là gì? Những đồ tạo tác hoặc những mảnh vụn được tìm thấy xung quanh là gì? Có dấu vết nào gần đó không? Các học viên cao học - thậm chí thông minh như Yvette Debré - cũng khó phát hiện ra những manh mối đó.

Hầm khai quật chỉ dài khoảng 1 mét rưỡi, rộng một sải vai. Martineau hạ thấp người xuống, cẩn trọng để không làm xáo trộn vùng đất xung quanh. Chiếc mũ của anh ta nhô lên khỏi nền đất thô cứng. Martineau lấy từ trong túi sau ra một chiếc cuốc chim, một cái bàn chải và bắt tay vào việc.

Anh ta không hề rời khỏi hầm trong sáu giờ liên tục. Yvette ngồi vắt chân ngay cạnh hầm. Thỉnh thoảng cô đưa cho Martineau nước khoáng hoặc cà phê, những thứ mà thường ngày chẳng bao giờ anh ta nhấp môi. Cứ vài phút, một trong những người trong đội lại đi ngang qua và thắc mắc về những gì anh ta mới phát hiện. Nhưng anh ta chỉ im lặng. Chỉ có tiếng cuốc chim của Martineau phát ra từ trong hố. Cùng với đó là các động tác cuốc, cuốc, quét quét. Rồi lại cuốc cuốc, quét quét và thổi…

Dần dần, khuôn mặt bị sỏi đá che phủ qua thời gian lộ ra trước mắt anh ta, cái miệng thể hiện sự đau đớn tột cùng, mắt nhắm chặt lúc chết. Ánh nắng đã chuyển hướng, anh ta dò sâu hơn theo lớp đất đá và phát hiện ra rằng cái đầu bị giữ chặt bởi một bàn tay đúng như anh ta mong đợi. Những người tập trung cạnh hầm khu khai quật không nhận ra rằng, đối với Paul Martineau, khuôn mặt đó còn hơn cả một món quà quý giá được khai quật từ quá khứ. Trong lớp đất đá tối om, Martineau đã nhìn thấy khuôn mặt kẻ thù của mình, và anh ta nghĩ một ngày không xa mình cũng sẽ được giữ một cái đầu lâu trong lòng bàn tay.

Cơn giông bất ngờ đổ xuống thung lũng Rhône vào giữa trưa. Mưa xối xả, từng cơn gió lạnh căm ào ạt quét qua hiện trường đào xới giống như cuộc bố ráp của đội quân Vandal. Martineau trèo ra khỏi hầm và tiến nhanh lên đồi, nơi những người còn lại trong đội đang trú mình sau bức tường khuất gió của thành lũy cổ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

24#
 Tác giả| Đăng lúc 26-12-2013 20:04:12 | Chỉ xem của tác giả
“Dọn dẹp thôi nào”, anh ta nói. “Sáng mai chúng ta sẽ tiếp tục”.

Martineau chúc họ một ngày tốt lành và hướng về phía bãi đỗ xe. Yvette tách ra khỏi nhóm và đi theo sau anh ta.

“Anh thấy sao nếu mình đi ăn tối nay?”

“Anh cũng muốn vậy lắm nhưng anh e rằng không thể”.

“Sao vậy anh?”

“Tối nay anh phải tham dự một bữa tiệc chiêu đãi chán ngắt của khoa ”, Martineau nói. “Chủ nhiệm khoa yêu cầu anh phải có mặt”.

“Còn tối mai thì sao?”

“Ừ, có thể được đấy”, Martineau nắm tay cô học viên cao học. “Gặp lại em ngày mai nhé”.

Bên kia bức tường là một bãi đậu xe cỏ mọc um tùm. Chiếc xe Mercedes mới tinh của Martineau đậu tách biệt hẳn so với những chiếc xe hơi và mô tô cũ kỹ của những tình nguyện viên và những nhà khảo cổ không mấy tên tuổi ở khu khai quật. Anh ta leo lên xe và lái dọc đường D14 hướng về Aix. Mười lăm phút sau, anh ta đã có mặt tại bãi đỗ xe bên ngoài căn hộ của mình, nằm ngoài đại lộ Mirabeau, ngay trung tâm thành phố.

Đó là một căn nhà sang trọng được xây từ thế kỷ mười tám, mỗi cửa sổ đều mở ra một ban công sắt và một cửa ra vào ở phía tay trái mặt tiền. Martineau lấy thư và bước vào thang máy lên tầng bốn. Thang máy đưa đến một hành lang nhỏ với sàn bằng cẩm thạch. Một cặp water vessel thời La Mã đặt phía ngoài cửa nhà. Khi có người hỏi liệu đó là đồ thật hay đồ giả thì anh ta đều trả lời chúng chỉ là đồ giả nhưng được tái chế khá tinh xảo mà thôi. Trong khi thực chất chúng là một món đồ cổ vô giá.

Căn hộ này có vẻ phù hợp với một thành viên của giới quý tộc vùng Aix hơn là với một nhà khảo cổ học hay một vị Giáo sư thỉnh giảng. Trước đây nó là hai ngôi nhà tách biệt. Sau cái chết bất ngờ của người hàng xóm góa vợ, anh ta mua lại và gộp chung thành một. Phòng khách khá rộng rãi và ấn tượng với trần cao, cửa sổ rộng nhìn thẳng ra đường. Đồ gỗ ở đây được trang trí theo phong cách đặc trưng của vùng Provence, trông đỡ đơn điệu ở căn biệt thự của anh ta tại Lacoste. Căn phòng được tô điểm thêm bởi một bức tranh phong cảnh của Cézanne và một cặp tranh phác họa của Degas. Hai cây trụ thời La Mã khá ấn tượng nằm ngay lối vào phòng làm việc. Nơi đây chứa hàng trăm công trình nghiên cứu khảo cổ, một bộ sưu tập đồ sộ những ghi chép tại hiện trường và bút tích của một số bộ óc tuyệt vời nhất trong lịch sử ngành khảo cổ. Ngôi nhà của Martineau cứ như một thánh đường. Anh ta chẳng bao giờ mời đồng nghiệp về đây trừ những người phụ nữ, và người được mời về gần đây nhất là Yvette.

Martineau tắm qua thay quần áo sạch sẽ. Hai phút sau anh ta lại ngồi sau tay lái xe Mercedes, tăng tốc về phía đại lộ Mirabeau. Anh ta không lái thẳng đến trường đại học, mà lại hướng về thành phố, rẽ sang đường cao tốc A51 về phía Mác-xây. Anh ta đã nói dối Yvette. Đây không phải là lần đầu tiên anh ta nói dối cô.

Phần lớn cư dân vùng Aix không mặn mà gì với thành phố Mác-xây. Nhưng Paul Martineau lại luôn bị nó cám dỗ. Thành phố cảng mà người Hy Lạp từng gọi là Massalia giờ đây là thành phố lớn thứ hai của Pháp. Đây là cửa ngõ dẫn vào thành phố của làn sóng nhập cư, hầu hết đến từ Algeria, Morocco và Tunisia. Đại lộ Canebière rộng lớn cắt ngang thành phố làm nó có hai khuôn mặt khác biệt rõ rệt. Phía nam đại lộ, ở phía bờ cảng cũ, là một thành phố kiểu Pháp sang trọng với những vỉa hè rộng dành cho khách bộ hành, những cửa hiệu mua sắm cao cấp, và khu dạo mát với những quán cà phê ngoài trời. Nhưng phía bắc là khu vực gồm hai thị trấn Le Panier và Quartier Belsunce. Ở đây người ta phải đi bộ men theo hai bên đường hẹp và chỉ toàn nghe tiếng Arập. Khi trời sẩm tối, khách nước ngoài và người Pháp bản địa rất ít khi đi vào khu Arập này, vì họ dễ dàng trở thành nạn nhân của những tên tội phạm đường phố.

Paul Martineau chẳng bao giờ phải bận tâm về sự an toàn của mình. Anh ta bước ra khỏi chiếc Mercedes trên đại lộ Anthène, gần chỗ hầm cầu thang dẫn đến ga Charles và bắt đầu xuống đồi hướng về đường Canebière. Trước khi tới đường lớn, anh ta rẽ phải, đi vào con đường Convalescents hẹp. Con đường chỉ vừa đủ rộng cho một chiếc xe hơi, nó dẫn ra cảng vào trung tâm Quartier Belsune.

Trời đã về khuya, một làn gió lành lạnh ập đến khiến Martineau rùng mình. Không khí ban đêm thoang thoảng mùi khói than, nghệ và mật ong. Hai người đàn ông già nua ngồi trên chiếc ghế ọp ẹp ngay lối đi của khu chung cư đang chia nhau ống điếu hút và hờ hững quan sát Martineau khi anh ta đi ngang qua. Một lát sau một trái bóng non hơi, tiệp với màu vỉa hè, từ bóng tối bay thẳng về phía anh ta. Martineau chặn một chân lên trái bóng và đá trả về hướng mà nó đã bay tới. Trái bóng được hất ngược lên bởi một đứa bé trai mang dép xăng-đan, nhưng ngay khi thấy một người đàn ông cao to trong bộ Âu phục, nó quay đi và biến mất vào trong hẻm. Martineau nhớ lại hình ảnh của mình ba mươi năm về trước. Mùi than, nghệ, mật ong… Trong một thoáng, anh ta ngỡ mình đang đi trên những con đường ở Beirut.

Anh ta bước đến ngã tư. Ngay góc đường là quầy Shoarma1, bên kia đường là một quán cà phê nhỏ hứa hẹn những món ăn khoái khẩu của người Tunisia. Ngay lối vào quán, một bộ ba thanh niên hướng mắt về phía Martineau đầy khiêu khích. Anh ta chúc họ một buổi tối tốt lành bằng tiếng Pháp sau đó chuyển ánh nhìn và sang phải.

Con đường hẹp dần, vỉa hè hầu như bị chiếm dụng bởi các sạp hàng đầy những tấm thảm rẻ tiền và ấm nhôm. Ở cuối đường là một quán cà phê Arập. Martineau bước vào trong. Đằng sau quán cà phê, ngay cạnh nhà vệ sinh là một lối lên cầu thang tối om. Martineau từ từ bước lên từ trong bóng tối. Trên đỉnh cầu thang là một cánh cửa. Khi Martineau tiến tới, cánh cửa đó đột nhiên mở toang. Một người đàn ông, râu ria nhẵn nhụi, mặc áo choàng galabia, bước ra đầu cầu thang.

Ông ta nói. “Maa-salaamah”, và tiếp luôn. “An lành cho anh”.

Martineau cũng nói lại. “As-salaam alaykum”, anh ta lướt qua người đàn ông và bước vào bên trong căn hộ.

Chú thích

1 . Shoama: Món thịt cừu xé mỏng cay.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

25#
 Tác giả| Đăng lúc 26-12-2013 20:09:17 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9

JERUSALEM

Jerusalem là thành phố tọa lạc hẳn trên một ngọn đồi. Thành phố nằm trên đỉnh dãy núi Judean, nối liền đồng bằng bởi những con đường bậc thang uốn lượn bao lấy hẻm núi Sha’ar Ha’Gai và vươn ra đến tận bờ biển. Thế nhưng, cũng như những người Isreal khác, Gabriel vẫn thích gọi nó bằng cái tên Arập, Bab alWad. Anh hạ thấp cửa kính chiếc xe công vụ Skoda xuống, tay chống bên thành cửa. Những làn gió khuya mát lạnh, thoảng mùi thơm của cây bách và thông thổi qua tay áo anh phần phật. Anh băng qua xác một chiếc xe quân sự bọc thép đã gỉ sét. Nó khiến anh chợt nhớ lại những tàn tích của cuộc chiến năm 1948, về Sheikh Asad và cả âm mưu cắt đứt con đường cứu viện tới Jerusalem.

Anh với tay bật radio với mong muốn nghe được một bài hát nào đó giúp anh thoát khỏi những suy nghĩ hiện tại. Thay vào đó, đài lại đang đưa tin về vụ đánh bom tự sát trên một chiếc xe buýt ở Rehavia, vùng đất trù phú cạnh Jerusalem. Gabriel đành phải nghe tin tức, và khi tiếng nhạc buồn thảm vang lên, anh tắt luôn radio. Những bản nhạc buồn chỉ mang đến những cảm giác bi thương mất mát. Mỗi khi bản nhạc này vang lên, nó lại báo hiệu rằng có người đã thiệt mạng, đôi khi là rất nhiều người.

Đại lộ số 1 với bốn làn đường nối liền với một đại lộ rộng lớn hướng về phía trung tâm. Đó là con đường Jaffa nổi tiếng nối từ phía Đông Bắc Jerusalem đến thành cổ. Gabriel men theo bên trái con đường, rồi qua một đoạn cong dài thoai thoải, băng qua cả khu nhà ga sầm uất. Người đi lại vẫn lũ lượt hướng về phía cửa vào mặc cho trận nổ bom vừa xảy ra. Họ không còn sự lựa chọn nào khác, họ vẫn phải bắt xe buýt, và chỉ biết thầm mong sự xui xẻo tương tự không đổ lên đầu mình.

Gabriel lái xe băng qua cửa vào khu chợ Makhane Yehuda đang nằm chắn ngang. Một nữ cảnh sát người Ethiopia trong bộ quân phục đứng canh gác tại thanh chắn và kiểm tra túi xách của từng người. Khi ngừng tại chốt đèn đỏ, anh thấy một đám người Do Thái chính thống mặc áo khoác đen len qua những chiếc xe như những chiếc lá xoay xoay trong gió.

Gabriel phải rẽ vòng vòng mới tới được đường Karkiss. Ở đây chẳng có bãi đậu xe nên anh dừng xe ngay tại một góc đường và chậm rãi đi bộ về phía căn hộ của mình, nơi có những cây bạch đàn vươn cao tỏa bóng mát. Anh vẫn có những ký ức ngọt ngào về Venice, về ngôi nhà yên bình bên con kênh nước chảy nhẹ nhàng, và về con thuyền anh cột bên bến tàu sau nhà.

Một con đường xi măng băng qua khu vườn nhỏ khá bừa bộn dẫn vào khu nhà chung cư bằng đá vôi chỉ cách đường lộ vài mét. Mái hiên được chiếu sáng bởi ánh đèn xanh. Nó ngai ngái mùi sơn mới. Anh chẳng cần kiểm tra thư - vì chẳng ai biết anh đang ở đây, và hóa đơn điện nước thì đã được gửi thẳng về bộ phận Quản lý Văn phòng.

Khu nhà thậm chí còn chẳng có cả thang máy. Gabriel mệt mỏi lê bước trên từng nấc thang xi măng lên tầng bốn, rồi mở cửa. Đối với gia đình Israel thì căn hộ này khá rộng rãi với hai phòng ngủ, một phòng ăn, một phòng làm việc nhỏ nằm giữa phòng khách và phòng ăn - nhưng nó thua xa căn biệt thự kiểu piano nobile của anh nằm cạnh con kênh tại Venice. Bộ phận Quản lý Văn phòng đã có lần rao bán nó cho anh. Có vẻ giá chung cư ở Jerusalem ngày càng rớt thê thảm bởi những trận đánh bom liều chết, và tính đến thời điểm đó, mức giá như thế là quá rẻ. Chiara quyết định không chờ đợi thêm nữa mà cô sẽ mua luôn. Vì không có nhiều việc nên cô rất chăm chỉ với việc mua sắm và quyết tâm biến căn hộ buồn tẻ này thành một tổ ấm thực sự. Chiara vừa thay được một chiếc thảm mới và một cái bàn uống cà phê bằng đồng thau hình tròn với những chiếc ghế gỗ được sơn phết. Anh hy vọng rằng cô mua những thứ đó ở chỗ có tiếng tăm chứ không phải ở những người bán dạo lề đường bán trời không văn tự.

Anh gọi tên Chiara nhưng không thấy cô đáp lại. Anh bước xuống sảnh dẫn vào phòng ngủ. Căn phòng được trang bị dành cho các nhân viên tình báo hơn là cho những đôi tình nhân. Gabriel đã ghép hai chiếc giường lại, nhưng lúc nào thức dậy giữa đêm anh cũng thấy mình và nằm lọt vào rãnh giữa. Phía cuối chân giường có một chiếc hộp bằng giấy cáctông nhỏ. Chiara đã đóng gói hết mọi thứ và đây là thứ duy nhất còn sót lại. Anh cho rằng tay giáo sư trên đại lộ King Saul có thể phân tích được tại sao anh không mở cái hộp đó. Lý do hết sức đơn giản - anh không có thời gian. Hơn nữa, thật ảm đảm khi nghĩ đến viễn cảnh cả cuộc đời còn lại của anh sẽ bị phá huỷ bởi chiếc hộp này. Thật khủng khiếp khi chỉ với một chiếc hộp kim loại nhỏ như thế lại có thể biến số phận con người thành tro tàn. Chúng không phải của anh. Chúng thuộc về Mario Delvecchio, một vai anh chỉ thỉnh thoảng diễn và đã nhận được khá nhiều lời tán dương.

Gabriel ngồi phịch xuống và lấy móng tay cứa đứt sợi dây. Anh cảm thấy thoải mái khi nhìn thấy lại chiếc hộp gỗ, bộ đồ nghề phục chế xách tay gồm mấy hộp màu và cọ vẽ mà anh được Umberto Conti tặng như một phần thưởng vào cuối thời kỳ tập sự. Những cái còn lại đều là những thứ đã bị hư hỏng: những cây chì cũ kỹ, những mảnh ghi chú về việc phục chế, bản nhận xét mà anh nhận được từ một tạp chí nghệ thuật Ý về tác phẩm của mình trong buổi trưng bày các tác phẩm của Tintoretto “Đức Chúa trời trên vùng biển Galilee”. Anh tự hỏi chẳng hiểu sao mình không nỡ vứt đi mà vẫn và giữ lại tất cả những thứ này.

Dưới đáy hộp là một phong thư được cột cẩn thận không lớn hơn cái hộp bao nhiêu. Anh cởi nút thắt và mở phong thư ra. Một cặp kính cận rớt ra ngoài. Chúng là của Benjamin Stern, một cựu sỹ quan tình báo đã bị sát hại. Thậm chí Gabriel vẫn có thể xác định được rõ những dấu vân tay còn hằn trên hai tròng kính.

Anh đặt cặp kính lại vào phong thư và chợt nhận ra có gì đó ở đáy hộp. Anh lật nó ngược lại và dốc ra sàn. Một vật gì đó rơi ra sàn, Gabriel nhìn kỹ hơn thì thấy đó là một miếng san hô đỏ đính trên một miếng bùa bằng da giống như hình một bàn tay. Ngay lúc đó anh nghe tiếng bước chân Chiara từ sảnh vọng vào. Anh vơ vội miếng bùa da đó và nhét gọn vào túi.

Vừa bước ra cửa chính, anh thấy Chiara đang cố mở cửa, tay cầm mấy giỏ rau quả. Cô ngước nhìn Gabriel và mỉm cười như thể rất bất ngờ khi gặp anh ở đây. Mái tóc đen uốn thành những lọn lớn, những tia nắng vùng Địa Trung Hải mới sang xuân còn sót lại trên gò má Chiara. Cô nhìn Gabriel với vẻ ngây thơ của một đứa trẻ Do Thái. Chỉ khi nào cô nói chuyện bằng tiếng Do Thái lơ lớ giọng Ý thì lúc đó cô mới cố giấu đi nguồn gốc của mình. Đã từ lâu Gabriel không nói chuyện với cô bằng tiếng Ý. Chỉ có Mario mới nói tiếng Ý, nhưng Mario đã chết rồi. Họ chỉ nói chuyện bằng tiếng Ý khi âu yếm nhau. Đó là thỏa thuận giữa hai người, vì Chiara cho rằng tiếng Do Thái không phải là ngôn ngữ dành cho những đôi tình nhân.

Gabriel đóng cửa vào và giúp cô xách mấy giỏ đồ vào nhà bếp. Đống đồ ăn thật lộn xộn, cái trắng, cái xanh, cái thì lại màu hồng với tên của một nhà sản xuất bơ nổi tiếng. Anh biết chắc rằng Chiara lại một lần nữa bỏ ngoài tai những lời căn dặn của anh, mà vẫn khăng khăng đi mua sắm tại khu chợ Makhane Yehuda.

“Tình hình ở đó đã khá hơn nhiều rồi, đặc biệt những sản phẩm thực phẩm”, Chiara chống chế khi quan sát ánh mắt không mấy hài lòng của Gabriel. “Hơn nữa, em cũng thích không khí ở đó, đông đúc nhộn nhịp”.

“Ừ, anh biết”, Gabriel đồng tình. “Em cũng nên thấy cảnh tượng tại đó lúc nó bị đánh bom”.

“Đừng nói là Gabriel nổi danh lại sợ mấy thằng đánh bom cảm tử nhé”.

“Phải. Em không thể chết được khi còn nhiều thứ đáng giá hơn phải làm. Em đi về bằng xe buýt phải không?”

Chiara nhìn anh vẻ có lỗi.

“Thấy chưa, Chiara!”

“Em không thể bắt xe điện được”.

“Thế em có biết vừa có một chiếc xe buýt bị nổ bom ở Rehavia không?”

“Dĩ nhiên là em biết. Em có nghe thấy tiếng nổ lúc đang ở trong khu Makhane Yehuda. Đó là lý do vì sao em quyết định đón xe buýt về. Em nghĩ là không thể có hai vụ đánh bom xe buýt liền nhau được. Anh biết là tính em thích những thứ hơi khác thường mà”.

Gabriel biết rõ rằng những cảnh tượng kinh khủng như thế là mặt trái của một xã hội Israel hiện đại.

“Từ giờ trở đi hãy đi tuyến xe buýt số 11”.

“Đó là tuyến nào?”

Anh chỉ hai ngón tay về phía sàn nhà, và di chuyển chúng, để diễn tả một đôi chân đang đi bộ.

“Phải chăng đấy là cái tính hài hước cố hữu trong con người Israel của anh?”

“Em phải có tính hài hước một chút thì mới sống được trong đất nước này. Đó là cách duy nhất giúp em không nổi điên lên với mọi thứ”.

“Khi còn ở Ý, em đã yêu anh nhiều hơn thế này”. Cô đẩy nhẹ Gabriel vào phòng ăn. “Anh đi tắm đi. Tối nay chúng ta có khách đấy”.

Ari Shamron rất hay làm mất lòng những người yêu quý mình. Ông luôn tin một cách mù quáng rằng với chừng ấy năm cống hiến trong Bộ Quốc phòng, cả con cái và bạn bè ông cũng sẽ đều được miễn quân dịch. Con trai ông, Yonatan, là một lính xe tăng trong Bộ Quốc phòng Israel. Yonatan có vẻ luôn bị ám ảnh với việc nếu có chết thì phải hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Con gái ông đã chuyển đến New Zealand sinh sống nhưng trong một nông trại gà với những người không có nguồn gốc Do Thái. Con bé hầu như không liên lạc với Shamron và chẳng thèm màng đến những lời yêu cầu về thăm lại nơi nó được sinh ra.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

26#
 Tác giả| Đăng lúc 26-12-2013 20:11:34 | Chỉ xem của tác giả
Chỉ duy có Gilah, người vợ đã suốt một đời hi sinh bản thân mình để chăm lo cho chồng con, là còn ở bên ông. Bà là người điềm tĩnh trong khi tính khí Shamron lại quá thất thường, và bà lại chỉ nhìn được những điểm tốt nơi chồng mình. Bà là người duy nhất dám cáu bẳn với ông, dù việc cáu bẳn đó chẳng khiến ông bối rối vì bà chỉ toàn dùng tiếng Ba Lan. Bà phàn nàn ngay cả khi Shamron loay hoay châm mồi thuốc trên bàn ăn sau khi dùng xong gà quay và cơm thập cẩm. Bà không biết nhiều về công việc của chồng, mặc dù bà cũng hơi nghi ngờ rằng công việc đó không mấy lương thiện. Shamron không hề kể gì công việc của mình cho vợ nghe vì lo ngại rằng nếu Gilah biết quá rõ mọi thứ thì bà sẽ không cho phép ông lại gần con cái. Còn với Gabriel, vì không hiểu công việc của anh nên bà rất quý mến và đối xử tử tế với anh. Bà có cảm giác rằng Gabriel kính trọng Shamron theo một cách rất đặc biệt, như tình yêu của một người con đối với cha vậy. Bà không biết rằng tay Gabriel đã vấy máu theo mệnh lệnh của chính chồng mình. Bà chỉ biết rằng anh là một thư ký và phải thường xuyên họp hành ở châu Âu đồng thời bà cũng biết anh là người rất am hiểu về nghệ thuật.

Gilah giúp Chiara rửa chén bát, trong khi Gabriel và Shamron lui về phòng làm việc để bàn bạc. Đợi khuất tầm nhìn của Gilah, Shamron châm một điếu thuốc. Gabriel mở toang cửa sổ. Tiếng mưa đêm rơi trên mặt đường như một bản nhạc, mùi hương của cây bạch đàn tràn ngập toàn bộ căn phòng.

“Tôi nghe nói là cậu đang truy tìm Khaled”, Shamron nói.

Gabriel gật đầu. Buổi sáng hôm đó anh đã báo cáo sơ bộ tình hình cho Lev nghe về những phát hiện của Dina, và ngay lập tức Lev đã lên đường đi Jerusalem để gặp Thủ tướng và Shamron.

“Thành thực mà nói, tôi chưa bao giờ tin vào những câu chuyện hão huyền về Khaled”, Shamron nói. “Tôi chắc mẩm rằng hắn ta đã thay tên đổi họ và quyết định thoát khỏi cái bóng của ông nội và cha mình - cũng như muốn thoát khỏi sự tối tăm của mảnh đất này”.

Gabriel nói. “Tôi cũng cho là thế, nhưng giả thuyết mà chúng ta đã đưa ra rất thuyết phục”.

“Đúng vậy. Tại sao trước đó không ai nghĩ đến mối liên hệ giữa thời gian xảy ra hai sự kiện ở Buenos Aires và Istanbul nhỉ?”

“Mọi người đều cho đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên”. Gabriel nói. “Hơn nữa, cũng không có đủ bằng chứng để quy kết điều gì cả. Cũng không ai từng nghĩ đến việc sẽ xem xét khu vực Beit Sayeed, cho đến tận bây giờ”.

“Chà, cô nàng Dina này giỏi thật đấy”.

“Tôi e rằng có cái gì đó đang ám ảnh cô ấy”.

“Cậu đang ám chỉ việc cô ấy đã ở quảng trường Dizengoff vào cái ngày chiếc xe buýt Số 5 nổ tung đúng không?”

“Làm sao ông biết được chuyện này?”

“Tôi được phép xem hồ sơ cá nhân của các thành viên trong tổ điều tra của cậu mà. Cậu cũng biết lựa chọn người đấy nhỉ”.

“Cô ấy biết rất rõ về ông đấy, kể cả một số chuyện mà ông chưa từng kể cho tôi”.

“Ví dụ như điều gì?”

“Ví dụ như tôi chưa từng biết chính Rabin là người lái chiếc xe đứng chờ ngoài cổng khi ông giết Sheikh Asad”.

“Chúng tôi đã rất thân thiết sau vụ đó, Rabin và tôi, nhưng lấy làm tiếc là chúng tôi đã không còn đồng hội đồng thuyền sau Hiệp định Oslo. Rabin tin là A’one đã thất thế và đó là thời điểm thích hợp để thương thuyết hòa bình. Tôi đã cảnh báo với anh ấy rằng A’one đang khởi động việc thương thuyết chỉ vì ông ta thất thế ư? Chẳng qua A’one sử dụng Hiệp định Oslo như một phương tiện để tiến hành cuộc chiến tranh dưới danh nghĩa khác thôi. Và dĩ nhiên, tôi đã đúng. Đối với A’one, Hiệp định Oslo chỉ đơn thuần là một nước cờ trong chiến lược hủy diệt chúng ta. Chính A’one đã thề như thế bằng tiếng Arập”.

Shamron nhắm mắt. “Tôi không thích thú gì khi chứng minh được rằng mình đã đúng. Cái chết của Rabin khiến tôi choáng váng. Phe cánh hữu gọi anh ấy là kẻ phản quốc, là người của Đức Quốc Xã, và đã ám sát anh ấy. Chính chúng ta đã giết đi người của mình. Chúng ta lại đi vào vết xe đổ của kẻ thù chúng ta”. Ông lắc nhẹ đầu. “Mặc dù vậy, cần phải nói rằng mọi nỗ lực chung sống hòa bình với kẻ thù không đội trời chung hoàn toàn hão huyền. Vì thế chúng ta càng phải nắm chặt tay súng nếu còn muốn tồn tại trên mảnh đất này”.

Hết sức thận trọng, Gabriel hỏi về việc ngôi làng Beit Sayeed bị phá hủy.

“Có phải đó là hành động của lực lượng Palmach không?”

“Chính xác thì cậu muốn biết gì hả Gabriel?”

“Ông đã ở đó chứ?”

Shamron thở dài một cách nặng nhọc rồi gật đầu. “Chúng ta không có sự lựa chọn nào khác. Beit Sayeed là căn cứ hoạt động của quân đội Sheikh Asad. Chúng ta không thể để một ngôi làng với đầy lòng thù hằn tồn tại được. Sau cái chết của Sheikh, cần phải giáng cho đám tàn quân của hắn một đòn chí mạng”.

Đột nhiên ánh nhìn của Shamron trở nên xa xăm. Gabriel hiểu ông không muốn bàn sâu về vấn đề này nữa. Shamron rít mạnh một hơi thuốc, sau đó kể cho Gabriel về linh cảm ám ảnh mình trước khi thảm họa ở Rome xảy ra. “Khi đó, tôi đã cảm nhận được sẽ có một thảm hoạ xảy ra. Và cả thời khắc nó xảy ra nữa”. Rồi ông lại tự đính chính. “Tôi đã cảm thấy chuyện đó trước lúc nó xảy ra”.

“Nếu Khaled đang cố trừng phạt chúng ta, tại sao hắn không giết tôi ở Venice khi có cơ hội?”

“Có thể hắn chưa muốn ra tay ở Venice. Daoud Hadawi chỉ cách Milan có vài dặm khi người Ý tìm hắn. Có thể Hadawi là người được đề nghị để giết cậu”.

“Và vụ ở Rome?”. Gabriel hỏi. “Tại sao Khaled lại chọn Rome?”

“Có thể vì Rome giữ vai trò như tổng hành dinh ở châu Âu của tổ chức Tháng Chín Đen”. Shamron nhìn Gabriel. “Hoặc có thế hắn đã cố nhằm mục tiêu vào cậu”.

Thật là tuyệt, Gabriel nghĩ.

“Cậu nhớ lại xem”, Shamron nói. “Trong vòng một tuần trước vụ nổ bom, đã có một cuộc biểu tình quy mô lớn ở trung tâm Rome nhằm vào chúng ta chứ không phải bọn khủng bố người Palestine. Người châu Âu là người bạn tốt nhất của người dân Palestine. Thế giới văn minh đã bỏ mặc số phận chúng ta. Chúng ta quay lại mảnh đất này vì đã bị xua đuổi đi bởi lòng căm ghét của người Thiên Chúa giáo châu Âu. Và bây giờ khi chúng ta chạy đến đây lánh nạn thì họ lại không cho phép chúng ta đấu tranh. Họ sợ rằng sẽ khiến những người Arập ở châu Âu phản kháng”.

Rồi họ chìm vào im lặng. Tiếng chén đĩa kêu leng keng hòa cùng tiếng cười trong trẻo vọng lên từ gian bếp. Shamron ngồi thu mình trong chiếc ghế. Tiếng mưa rơi tí tách và mùi thơm ngạt ngào của những cây bạch đàn có vẻ như là một liều thuốc giảm đau hiệu quả đối với ông.

“Tôi có đem vài thứ giấy tờ để cậu ký”, ông nói.

“Giấy tờ gì thế?”

“Những giấy tờ cần thiết để kết thúc cuộc hôn nhân của cậu với Leah một cách êm thấm”. Shamron đặt bàn tay lên cánh tay Gabriel. “Đã mười bốn năm trôi qua. Cô ấy không thể giữ cậu được nữa. Cô ấy sẽ không quay về. Đến lúc cậu phải tiếp tục cuộc sống cho riêng mình”.

“Điều này không dễ tí nào Ari ạ”.

“Tôi sẽ không tranh cãi với cậu”, Shamron nói. “Khi nào cậu định đưa cô ấy về?”

“Bác sĩ của cô ấy phản đối việc này. Anh ta lo ngại rằng việc quay về Israel chỉ khiến tình trạng của cô ấy tồi tệ thêm. Cuối cùng tôi phải cố gắng lắm mới thuyết phục anh ấy hiểu rằng tôi không thể để cho cô ấy ở lâu hơn được nữa. Nhưng anh ta vẫn nhất quyết rằng cô ấy cần thêm một thời gian nữa mới có thể xuất viện”.

“Khi nào?”

“Một tháng”, Gabriel đáp. “Hoặc có thể sớm hơn”.

“Nói với bác sĩ của cô ấy rằng cô ấy sẽ được chăm sóc chu đáo ở đây. Mặc dù chẳng hay ho gì khi tự nhận rằng chúng ta có khá nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc các nạn nhân bị khủng bố bom”.

Shamron đột nhiên đổi đề tài. “Cậu thấy căn hộ này thoải mái chứ?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

27#
 Tác giả| Đăng lúc 26-12-2013 20:14:13 | Chỉ xem của tác giả
Gabriel tỏ vẻ hài lòng.

“Nó đủ lớn cho một hoặc hai đứa trẻ nữa đó”.

“Đừng vẽ vời tương lai xa xôi vậy Ari. Tôi chẳng dám nghĩ đến tuổi năm mươi nữa”.

“Chiara sẽ muốn có con nếu cậu cưới cô ấy, tất nhiên là vậy rồi, phụ nữ ai chả thế. Bên cạnh đó, cậu phải làm tròn nghĩa vụ đối với đất nước. Cậu chưa nghe về hiểm họa dân số à? Dân tộc chúng ta sẽ sớm trở thành đất nước thiểu số trong khu vực sông Gioócđan và vùng biển này. Thủ tướng đang khuyến khích tất cả chúng ta có thêm nhiều con. Cám ơn Chúa vì chúng ta là những gia đình Do Thái chính thống. Đó là lý do tại sao chúng ta phải gánh vách trọng trách này”.

“Tôi sẽ cố cống hiến cho đất nước theo cách khác”.

“Cậu biết đó, nó là của cậu”, Shamron nói.

“Cái gì cơ?”

“Căn hộ này đó”.

“Ông đang nói gì thế?”

“Bây giờ cậu là chủ sở hữu căn nhà. Một người của Văn phòng đã mua nó cho cậu”.

Gabriel lắc đầu. Anh luôn ngạc nhiên về cách đề cập chuyện tiền nong theo kiểu xã hội đen của Shamron.

“Tôi không thể nhận nó”.

“Quá muộn rồi. Văn bản đã được gửi đi vào buổi sáng”.

“Tôi không muốn mắc nợ ai cả”.

“Chính chúng tôi mắc nợ cậu mới đúng. Hãy nhận nó một cách thoải mái. Hãy coi nó như là một món quà không cần sự đáp trả”. Shamron vỗ vai Gabriel. “Và hãy sưởi ấm nó bằng những đứa trẻ”.

Gilah thò đầu qua cánh cửa khép hờ. “Món khai vị đã sẵn sàng”, bà nói, quay sang nhìn Shamron và yêu cầu ông bỏ điếu thuốc xuống bằng tiếng Ba Lan.

“Ngày Mười tám tháng Tư”, ông lẩm bẩm khi Gilah đã đi khỏi. “Không còn nhiều thời gian nữa”.

“Tôi biết thời điểm đã gần kề”.

“Tôi chợt nghĩ ra là có một người có thể biết Khaled ở đâu”.

“Là A’one à?”

“Ông ta gần như là cha của Khaled. Nhưng ông ta lại nợ cậu một món nợ lớn. Cậu đã từng cứu mạng ông ta một lần”.

“Tôi không muốn gặp A’one ông ta là một kẻ lừa gạt”.

“Đúng. Nhưng đôi khi những lời dối trá của ông ta lại giúp chúng ta tìm ra sự thật”.

“Lev sẽ không bao giờ cho tôi được tiếp xúc với ông ta”.

“Vậy đừng có nói với Lev”.

“Tôi không nghĩ sẽ là khôn ngoan nếu tôi công khai lộ diện và gõ cửa trước nhà A’one. Trừ khi tôi đến Ramalla trên chiếc xe chở nhân viên bọc thép”.

“A’one thật sự không có đường nào để trốn thoát cả. Quân đội Israel đang canh giữ ngôi nhà đó”. Shamron tự cho phép mình mỉm cười trước sự sa cơ của đối thủ. “Còn về xe bọc thép, chuyện đó để tôi lo”.

Gabriel leo lên giường, từ từ nhích vào trong. Trong bóng đêm, anh với tay và vòng qua bụng Chiara. Cô vẫn nằm bất động.

“Anh và ông Ari nói chuyện gì trong phòng làm việc vậy?”

“Chỉ bàn về vụ điều tra”.

“Chỉ có vậy thôi à?”

Anh nói với Chiara rằng căn hộ giờ đã là của họ.

“Sao lại như thế được?”

“Đó là nhờ Shamron và những người bạn lắm tiền của ông ta. Anh sẽ nói với quản gia chuyển đồ đạc cũ đi. Ngày mai em có thể mua một chiếc giường thoải mái cho hai chúng ta”.

Chiara từ từ giơ tay lên. Trong bóng tối, Gabriel có thể thấy chiếc bùa bằng da đung đưa dưới những ngón tay của cô ấy.

“Cái gì đây anh?”

“Một chiếc bùa may mắn từ đảo Corsica. Người ta nói nó tránh được mắt của quỷ”.

“Anh lấy nó ở đâu thế?”

“Chuyện dài lắm”.

“Kể em nghe đi”.

“Chuyện bí mật mà”.

Anh với tay lấy lại chiếc bùa. Chiara khéo léo di chuyển bàn tay, quay nhanh chiếc bùa để nó nằm gọn trong các ngón tay của cô như cách người Arập vẫn thường đùa nghịch với chuỗi hạt nguyện của họ.

“Một món quà từ người tình cũ của anh à?”. Chiara hỏi.

“Thực ra là kẻ thù cũ. Một người đàn ông được thuê để giết anh và người phụ nữ anh đang bảo vệ”.

“Anna Rolfe à?”

“Phải”, Gabriel trả lời, “là Anna Rolfe”.

“Sao anh lại giữ nó?”. Chiara hỏi”. Anh luôn nhớ về cô ta ư?”

“Chiara, đừng trẻ con như vậy”.

Cô ném chiếc bùa về phía Gabriel. Miếng san hô đỏ đáp xuống ngực anh.

“Có chuyện gì không ổn hả Chiara?”

“Những giấy tờ tối nay Shamron đưa anh trước khi ông ấy đi là gì? Hay đó cũng là một bí mật?”

Gabriel trả lời một cách thành thật.

“Anh đã ký chúng chưa?”

“Anh nghĩ mình cần đọc qua trước đã”.

“Anh biết nó là gì mà”.

“Anh sẽ ký chúng”, Gabriel nói.

“Khi nào?”

“Khi anh sẵn sàng”.

Chỉ ngay sau đó, một tiếng nổ rền vang làm rung chuyển cả tòa nhà. Chiara trèo ra khỏi giường và lao đến cửa sổ. Gabriel vẫn nằm bất động trên giường.

Cô nói. “Gần đây thôi”.

“Anh đoán là khu buôn bán Ben Yehuda. Có thể là một quán cà phê”.

“Bật đài lên đi anh”.

“Chỉ cần đếm số còi hụ cứu thương thôi Chiara. Em có thể biết tình hình tệ đến mức nào qua số lượng xe cứu thương được điều động đến”.

Một lát sau, không gian chìm trong sự im lặng và tĩnh mịch đến đáng sợ. Gabriel nhắm mắt và tưởng tượng. Trí tưởng tượng của anh rõ ràng, sống động và sắc nét hệt như một đoạn băng video, cơn ác mộng đó xảy ra cách ngôi nhà mới của anh chỉ vài tòa nhà. Tiếng xe cứu thương đầu tiên kêu lên, sau đó là tiếng thứ hai, thứ ba, thứ tư. Sau số mười bảy, Gabriel không còn đếm nữa, vì đêm đó đã trở thành một bản giao hưởng của còi hụ cấp cứu. Chiara quay lại giường và ôm lấy ngực anh.

“Hãy ký những giấy tờ đó khi nào anh thấy sẵn sàng”, cô ấy nói. “Em sẽ ở đây. Em sẽ luôn ở đây”.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

28#
 Tác giả| Đăng lúc 26-12-2013 20:16:50 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10

JERUSALEM: NGÀY 22 THÁNG 3

Viên Đại tá quân đội đang đứng đợi cạnh bức tường của Thành Cổ, anh ta trông không giống Ari Shamron - cha mình cho lắm, nhưng điều đó chẳng mảy may khiến Gabriel ngạc nhiên. Ánh mặt trời, mối quan hệ xã hội căng thẳng, và cả bầu không khí khủng bố nghẹt thở trên đất nước Israel này - tất cả đều đủ sức tàn phá diện mạo của mọi công dân. Nhỉnh hơn người cha danh tiếng của mình đến 1 tấc rưỡi, chàng trai quyến rũ Yonatan Shamron không hề mang dáng dấp phòng vệ như ông. Gabriel hiểu rằng đó là kết quả của việc cậu ta được nuôi dưỡng và lớn lên ở đây chứ không phải ở Ba Lan. Chỉ khi người lính đó nhảy ra khỏi chiếc xe jeep bọc thép và chìa bàn tay như chĩa con dao găm về phía Gabriel thì lúc này anh mới tìm thấy điểm giống nhau của hai cha con Shamron. Dáng đi nặng nề như người từ cõi chết trở về, cách bắt tay thật chặt và vỗ vai mạnh mẽ khiến Gabriel có cảm tưởng như mình bị đội quân Herodion tấn công.

Họ khởi hành dọc theo con đường số 1 - biên giới cũ giữa Đông và Tây Jerusalem. Chỉ cần đi 16 km về phía bắc là đến Ramallah, vị trí chiến lược của quân đội Palestine. Một trạm kiểm soát hiện ra ngay trước mắt họ. Phía đối diện là trại tỵ nạn Kalandiya, nơi mà mười ngàn dân Palestine sống chen chúc trong những căn nhà bằng gạch xỉ than chỉ trong vòng vài trăm mét vuông. Phía bên phải là những ngôi nhà mái đỏ xếp ngay ngắn bao quanh ngọn đồi nhỏ của khu dân cư Do Thái Psagot. Tấm chân dung lớn của A’one nổi bật với câu khắc bằng tiếng Arập: LUÔN BÊN BẠN.

Yonatan trỏ ngón tay cái ra phía ghế sau và nói, “Anh mặc mấy thứ đó vào đi”.

Nhìn qua vai Yonatan, Gabriel thấy một chiếc áo chống đạn cổ cao và mũ sắt quân sự. Gabriel đã không còn đội chiếc mũ đó kể từ khi tạm ngừng phục vụ quân đội Israel. Chiếc mũ quá khổ mà Yonatan đưa cho cứ sụp xuống mắt Gabriel. Yonatan nói. “Giờ anh giống một người lính thực thụ rồi đó”. Rồi anh ta bật cười. “À, mà chỉ gần như vậy thôi”.

Một lính bộ binh vẫy họ từ trạm kiểm soát, và khi nhận ra người ngồi sau tay lái, anh ta mỉm cười và nói, “A, Yonatan”. Giống như ở Văn phòng, kỷ luật trong quân ngũ Israel nổi tiếng lỏng lẻo. Họ thường chỉ chào nhau bằng tên mà không sử dụng bất kỳ nghi thức quân đội nào cả.

Qua tấm kính chống đạn mờ mờ, Gabriel quan sát khung cảnh xung quanh trạm kiểm soát. Hai người lính có vũ trang đang ra lệnh cho những người đàn ông cởi áo khoác ra và kéo áo sơ mi lên để kiểm tra xem họ có giấu bom trong người không. Phụ nữ cũng bị rà soát sau một rào chắn để tránh cái nhìn những cái nhìn tò mò. Bên ngoài trạm kiểm soát là một đoàn rồng rắn kéo dài cả trăm dặm. Gabriel nhẩm tính họ chắc phải đợi đến ba bốn giờ mới qua được trạm kiểm soát này. Những kẻ đánh bom tự sát đã gây ra quá nhiều điều bất hạnh cho cả hai bên Giới Tuyến Xanh này, mà chính những người Palestine hiền lành - những người công nhân mong tìm được việc ở Israel, những người nông dân tần tảo kiếm sống - lại phải khốn đốn.

Gabriel nhìn ra xa trạm kiểm soát, về phía hàng rào phân cách.

Yonatan hỏi. “Anh nghĩ thế nào?”

“Chắc chắn chẳng có gì tự hào rồi”.

“Tôi nghĩ đó không khác gì một vết nhơ cho đất nước tươi đẹp của chúng ta. Bức tường phân ly mới xây dài hơn nhiều so với bức tường đầu tiên. Giờ đây người dân cả hai bên thành lũy đều phải gánh chịu những điều bất hạnh. Nhưng tôi e rằng chúng ta không có sự lựa chọn nào khác. Nhờ tin tức tình báo chính xác chúng ta có thể ngăn được nhiều, nhưng không thể ngăn được tất cả các cuộc tấn công tự sát. Vì thế mà chúng ta phải xây bức tường này”.

“Nhưng đó không phải là lý do duy nhất để xây nó”.

“Đúng vậy”, Yanathan nói. “Khi bức tường được hoàn thành, nó sẽ cách ly chúng ta khỏi thế giới Arập. Đó là lý do khiến bọn chúng lo sợ. Âm mưu sâu sa của chúng là muốn gây xung đột với chúng ta, nhưng bức tường này sẽ cản trở chúng”.

Đại lộ số 1 rẽ sang quốc lộ 60. Đó là một dải nhựa đen phẳng lì chạy về phía bắc ngang qua những dãy nhà xám xịt của khu bờ Tây. Đã hơn ba mươi năm trôi qua kể từ lần cuối Gabriel ở Ramallah. Giống như bây giờ, ngày ấy anh cũng đi trên những chiếc xe bọc thép, đầu đội mũ quân đội Israel. Những năm đầu định cư nơi đây tương đối êm ả. Điều khó khăn duy nhất của Gabriel là làm sao bắt xe từ sở về nhà bố mẹ mình ở thung lũng Jezreel vào dịp cuối tuần. Cuộc sống của người Arập trên dải Bờ Tây được cải thiện đáng kể sau khi chấm dứt chế độ cai trị của người Gioócđan. Tương tự, người dân Israel cũng được hòa nhập vào nền kinh tế sôi động, có nước máy, điện và cả nền giáo dục. Tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh vốn ở mức cao nhất thế giới đã tụt xuống. Trình độ dân trí thuộc hàng thấp nhất thế giới cũng tăng một cách mạnh mẽ. Quân đội Israel hàng ngày phải đối mặt với những trò ném đá của lũ trẻ, nhưng đối với Gabriel, các hoạt động quân sự ở đây chỉ là những bài luyện tập nhàm chán.

“Vậy anh đến để gặp Người hết thời à?”. Câu nói của Yonatan cắt ngang dòng suy nghĩ của Gabriel.

“Cha anh đã giúp tôi sắp xếp cuộc gặp mặt này”.

“Một ông già bảy mươi lăm tuổi mà vẫn thích giật dây những con rối”. Yonatan vừa cười vừa lắc đầu. “Sao bố tôi không nghỉ ngơi và để yên mọi chuyện nhỉ”.

“Ông ấy gần như phát điên”, Gabriel nói. “Và mẹ cậu cũng thế. Nhân tiện, ông ấy nhờ tôi chào cậu. Ông ấy muốn cậu đến Tiberias phục vụ cho lực lượng Shabbat”.

“Tôi đang tại ngũ mà”, Yonatan nói ngay.

Tại ngũ có vẻ chỉ là lý do để Yonatan tránh phải liên quan nhiều đến cha mình. Gabriel cảm thấy miễn cưỡng khi phải tham gia vào các cuộc tranh luận của gia đình Shamron. Anh hiểu rằng người đàn ông luống tuổi đó đã bị tổn thương sâu sắc đến nhường nào bởi sự ghẻ lạnh của con cái mình. Gabriel cũng là tuýp người luôn nghĩ đến lợi ích của bản thân khi tham gia vào bất cứ việc gì. Nếu như Yonatan thường xuyên ở bên cạnh Shamron thì Gabriel có thể sẽ bớt được phần nào áp lực. Giờ đây, Gabriel lại sống ở Jerusalem thay vì ở Venice, nên Shamron có thể gọi cho anh bất kỳ lúc nào để trao đổi chuyện tầm phào ở Sở Nội vụ hoặc phân tích những tiến triển chính trị gần đây nhất. Gabriel cần khoảng không riêng cho mình. Yonatan có thể đóng vai trò như một người đỡ đạn thay anh.

“Bố anh muốn thường xuyên gặp anh, Yonatan”.

“Tôi chẳng thể nói chuyện với bố tôi lâu được”. Đang lơ đãng nhìn trên đường, chợt anh đưa mắt sang Gabriel. “Hơn nữa, ông ấy thích anh hơn”.

“Anh biết đó không phải là sự thật mà”.

“Thôi được rồi, tôi nói hơi quá. Nhưng chẳng khác sự thật là mấy. Chắc chắn ông ấy luôn coi anh như con trai của mình”.

“Cha anh là một người vĩ đại”.

“Vâng”, Yonatan nói, “và những người vĩ đại luôn nghiêm khắc với con cái”.

Gabriel thoáng thấy hai chiếc xe bọc thép xỉn màu chuyên chở nhân viên đậu phía trước xe họ ở góc đường. Yonatan nói. “Tốt nhất là đừng dại vào thị trấn mà không có một tấc sắt trong tay”. Họ nối đuôi nhau thành một đoàn và xe của Yonatan luôn ở giữa.

Dấu hiệu đầu tiên báo hiệu họ đã đến thành phố là dòng người Arập đi dọc cạnh đường quốc lộ. Những chiếc khăn trùm đầu phụ nữ bay phấp phới trong gió. Và rồi, thành phố Ramallah ảm đạm và xám xịt hiện lên giữa khung cảnh khô cằn. Con đường Jerusalem dẫn họ vào trung tâm thành phố. Mỗi khi xe vượt qua những cột đèn, Gabriel lại bắt gặp ánh mắt chòng chọc của những kẻ nổi tiếng là tử vì đạo. Nơi đây có những con đường được mệnh danh là con đường tử thần; những quảng trường, những khu chợ được coi là địa điểm chết. Một kiốt chuyên bán móc chìa khóa với hình dạng của những khuôn mặt thể hiện sự chết chóc. Một người Arập len lỏi giữa dòng người để chào bán những cuốn lịch có hình những kẻ tử vì đạo. Tấm áp phích mới nhất là một tấm hình quyến rũ của một cô gái trẻ đẹp, một thiếu nữ Arập đã đánh bom tự sát ở khu phố Ben Yehuda hai đêm trước.

Yonatan rẽ phải vào đường Broadcast và đi khoảng một dặm đến khi đụng rào chắn canh giữ bởi năm, sáu tay sĩ quan an ninh Palestine. Một lần nữa Ramallah lại chịu sự kiểm soát của Palestine. Gabriel đến đây theo lời mời của người đương nhiệm cao cấp, cũng giống như việc vào làng Sicilia dưới sự bảo trợ của một quý tộc ở vùng đó. Vì thế không có gì khó khăn khi Yonatan trình bày lý do đến Palestine với giọng Arập khá chuẩn.

Tay sĩ quan Palestine hỏi ý kiến cấp trên thông qua điện đàm trong vòng vài phút. Rồi anh ta gõ lên mui xe và vẫy họ tiến tới. “Chầm chậm thôi, Đại tá Shamron”, anh ta dặn dò. “Một vài tên đã trà trộn vào ngay cái đêm mà đội quân phòng vệ Egoz Battalion của Israel phá cổng và bắt đầu nã đạn khắp nơi. Chúng tôi không muốn nơi này lại có thêm những mối bất hòa nữa”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

29#
 Tác giả| Đăng lúc 26-12-2013 20:18:18 | Chỉ xem của tác giả
Yonatan lái xe len qua mê lộ của các rào chắn bằng bê tông, sau đó nhẹ nhàng tăng tốc. Bên tay phải họ là bức tường thành bằng xi măng cao khoảng ba mét, bề mặt lởm chởm do hậu quả của các loại súng máy hạng nặng gây ra. Những nơi mà bức tường thành bị công phá trông như cái miệng rộng hoác với hàm răng khập khiễng. Lực lượng an ninh Palestine đi tuần quanh vành đai trên những chiếc xe tải không mui hay những chiếc xe jeep. Họ nhìn Gabriel và Yonatan một cách khiêu khích nhưng vẫn dằn vũ khí xuống. Yonatan đạp phanh ngừng lại trước lối vào. Gabriel cởi mũ và áo chống đạn ra.

Yonatan hỏi. “Anh sẽ ở đây bao lâu?”

“Tôi nghĩ điều này phụ thuộc vào cha anh”.

“Anh hãy chuẩn bị tinh thần cho một cơn thịnh nộ đi. Mấy ngày nay ông ta hay cáu bẳn lắm”.

“Ai có thể khiển trách ông ta về điều đó được chứ?”

“Anh nên nhớ ông ta chỉ có thể tự trách mình thôi”.

Gabriel mở cửa xe và bước ra. “Anh ở đây một mình có ổn không?”

“Không vấn đề gì”. Yonatan đáp lời. Sau đó anh ta vẫy chào Gabriel và nói. “Gửi lời chào của tôi tới ông ta nhé”.

Nhân viên an ninh người Palestine đón Gabriel tại thanh chắn của cổng. Hắn ta mặc bộ quân phục bằng vải dày màu nâu ô liu, đội mũ lưỡi trai cùng màu và đeo một miếng băng đen bên mắt trái. Hắn mở cổng chỉ đủ rộng để Gabriel bước qua và ra hiệu cho Gabriel tiến tới. Bàn tay hắn bị cụt ba ngón cuối. Phía bên kia cửa, Gabriel rà soát lại bởi hai nhân viên cảnh phục - một kiểu lục soát thô bạo và xâm phạm thân thể Gabriel trong khi gã Độc Nhãn đứng xem và nhe răng cười cứ như thể tất cả những chuyện này được sắp đặt để làm trò tiêu khiển cho hắn ta vậy.

Độc Nhãn tự giới thiệu hắn là Đại tá Kemel và dẫn Gabriel vào khu liên hợp. Đây không phải là lần đầu tiên Gabriel đặt chân đến căn cứ Mukata. Trong suốt thời gian bị đô hộ, nơi này là pháo đài của quân đội Anh. Sau Cuộc chiến Sáu ngày, quân đội Israel đã giành quyền kiểm soát pháo đài từ tay người Gioócđan và lập căn cứ chỉ huy ở khu vực Bờ Tây. Khi còn đang tại ngũ, Gabriel thường phải báo cáo nhiệm vụ tại nơi mà hiện giờ A’one sử dụng làm cơ quan đầu não của mình.

Văn phòng A’one nằm ở tòa nhà hai tầng vuông vức dựa vào thành lũy phía bắc của Mukata. Mặc dù bị hư hại nặng nhưng đây vẫn là một trong số ít những tòa nhà còn sót lại trong khu liên hợp. Ở hành lang, Gabriel lại tiếp tục bị lục soát lần thứ hai, lần này là một gã khổng lồ râu ria xồm xoàm trong bộ đồ trơn láng với khẩu tiểu liên chắc nịch vắt chéo ngay ngực.

Việc lục soát hoàn tất, tay bảo vệ gật đầu ra hiệu cho Đại tá Kemel, rồi đẩy Gabriel vào giữa một cầu thang hẹp. Đầu cầu thang, một tay nhân viên an ninh khác ngồi chễm chệ trên chiếc ghế hai chân khá bấp bênh. Hắn ta ném một cái nhìn hờ hững vào Gabriel sau đó tiến tới và gõ gõ lên cánh cửa gỗ. Một giọng đầy bực dọc ở phía bên kia cửa đáp. “Vào đi”. Đại tá Kemel mở khóa và dẫn Gabriel vào bên trong.

Văn phòng Gabriel bước vào không rộng hơn văn phòng của anh trên đại lộ King Saul là bao. Trong đó có một chiếc bàn gỗ nhỏ nhắn và một chiếc giường xếp nhỏ với một lượng lớn những tập kinh Koran bọc da nằm trên bao gối trắng được hồ cứng. Màn cửa bằng vải nhung nặng trịch che kín cửa sổ; một chiếc đèn bàn xuống một đống giấy tờ là nguồn sáng duy nhất trong phòng. Từng hàng những khung ảnh chụp Thủ lĩnh người Palestine cùng những người nổi tiếng được treo dọc trên bức tường bị bóng tối bao trùm. Trong số đó có cả tấm hình chụp chung với Tổng thống Mỹ - người đã đồng ý công nhận quyền tự trị một phần đất nước của A’one. Ông ta đã đền ơn bằng cách tấn công trại David và rút khỏi cuộc đàm phán hòa bình.

Phía sau bàn, một người nhỏ bé và có vẻ ốm yếu đang ngồi, đó chính là A’one. Ông ta mặc bộ quân phục được là ủi phẳng phiu và một chiếc khăn trùm đầu ca rô trắng đen. Như bao người khác, chiếc khăn đó che phủ bờ vai trái của ông ta và bó chặt phía trước ngực bộ quân phục của ông ta giống như hình dạng đất nước Palestine. Gabriel chợt nhận ra nó cũng khá giống đất nước Israel. Đôi tay ông ta run rẩy ra hiệu mời Gabriel ngồi xuống, môi dưới trễ hẳn xuống khi ông hỏi Gabriel có muốn dùng trà không. Dĩ nhiên Gabriel thừa biết rằng theo phong tục của người Arập, việc từ chối sẽ làm mọi việc không được suôn sẻ ngay từ lúc đầu, nên anh chọn một tách trà và thích thú quan sát A’one sai Đại tá Kemel đi lấy nước.

Khi còn lại hai người trong phòng họ chỉ im lặng nhìn nhau. Hình ảnh của cuộc chạm trán gần đây nhất chợt hiện về. Chuyện xảy ra tại phòng làm việc trong một căn hộ ở Manhattan. Tariq al-Hourani, kẻ chủ mưu gài bom bên dưới xe hơi của Gabriel ở Viên, cố tình ám sát A’one vì lầm tưởng ông đã phản bội Palestine. Trước khi chuồn khỏi căn hộ, Tariq nã một phát đạn vào ngực Gabriel khiến anh suýt thiệt mạng.

Giờ đây, ngồi đối diện A’one, vết thương nơi ngực anh lần đầu tiên nhói lên sau bao nhiêu năm. Ngoài trừ Shamron, có lẽ không còn ai ảnh hưởng đến cuộc đời của anh nhiều như A’one. Trong suốt ba mươi năm qua họ đã cùng nhau bơi trong một bể máu. Gabriel đã giết hầu hết những sĩ quan mà A’one tin tưởng nhất; A’one thì ra lệnh trả đũa Gabriel ở Viên. Liệu Leah và Dani là mục tiêu tấn công hay trái bom đó thực sự chỉ dành cho Gabriel? Gabriel luôn bị ám ảnh bởi câu hỏi này suốt mười ba năm qua. Tất nhiên là A’one thừa biết câu trả lời. Đó cũng là một trong những lý do khiến Gabriel nhận lời đề nghị của Shamron đến Ramallah.

“Shamron nói rằng cậu có chuyện hệ trọng muốn bàn với tôi”, A’one nói. Tôi đồng ý gặp cậu chỉ vì nể ông ta mà thôi. Chúng tôi trạc tuổi nhau. Lịch sử đã ném chúng tôi vào mảnh đất này, và thật không may là chúng tôi luôn đối đầu nhau ở hai bên chiến tuyến. Thỉnh thoảng, tôi có ưu thế hơn ông ta, nhưng đôi lúc ông ta lại thắng tôi. Giờ đây cả hai chúng tôi đều già cả rồi. Chỉ hy vọng rằng chúng tôi có thể thấy được dù chỉ vài ngày yên bình trước khi chết. Nhưng hy vọng của tôi có vẻ như khó thành hiện thực”.

Gabriel nghĩ, nếu sự thật là vậy, tại sao ông ta lại rút khỏi vòng đàm phán có thể đem đến cho ông ta một nhà nước ở dải Gaza và 97 phần trăm khu bờ Tây với thủ phủ là Đông Jerusalem? Tất nhiên Gabriel biết câu trả lời. Nó nằm ngay trên tấm khăn mang hình dáng đất nước Palestine khoác trên vai A’one. Ông ta muốn toàn bộ đất nước đó.

Gabriel không có cơ hội nói ra suy nghĩ đó của mình vì Đại tá Kemel đã quay lại với một chiếc khay bạc và hai tách trà. Viên Đại tá ngồi xuống và nhìn chằm chằm vào Gabriel với con mắt còn lại. A’one giải thích rằng viên phụ tá rành tiếng Do Thái cổ này sẽ giúp ích cho cuộc đối thoại. Gabriel chỉ hy vọng gặp một mình A’one nhưng có lẽ có thêm thông dịch viên thì tốt hơn. Tiếng Arập của Gabriel dù khá trôi chảy nhưng vẫn không biểu lộ được sắc thái hoặc đủ linh hoạt để đấu khẩu với một người như A’one.

A’one run run đặt tách trà xuống đĩa và hỏi Gabriel lý do anh đến Ramallah. Gabriel trả lời một cách đơn giản. “Khaled”. Đúng như Gabriel dự đoán, trả lời bằng một từ cộc lốc đó khiến A’one sững sờ trong giây lát.

“Khaled sao?”. A’one lặp lại và nhanh chóng lấy lại thăng bằng. “Tôi biết nhiều người tên Khaled. Tôi e rằng đó là một cái tên phổ° biến ở Palestine. Anh cần phải nói rõ hơn”.

Giả bộ lờ đi, Gabriel biết rõ đó là một trong các kỹ năng đàm phán ưa thích của A’one. Gabriel đi thẳng vào vấn đề.

“Người tên Khaled tôi đang tìm kiếm là Khaled al-Khalifa thưa Chủ tịch A’one”.

Viên Đại tá người Palestine sửa lại. “Tổng thống A’one chứ”.

Gabriel gật đầu hờ hững hỏi. “Khaled al-Khalifa đang ở đâu?”

Làn da đồi mồi trên khuôn mặt A’one bỗng biến sắc và môi dưới của ông ta bắt đầu mấp máy. Gabriel nhìn xuống và nhâm nhi tách trà của mình. Chỉ cần liếc nhìn, anh cũng nhận thấy tay Đại tá Kemel cũng nhấp nhổm trên ghế ngồi. Chỉ đến khi bắt đầu nói, A’one mới lấy lại được vẻ điềm tĩnh của mình.

“Theo tôi hiểu thì cậu đang ám chỉ đến con trai của Sabri al-Khalifa phải không?”

“Và nếu tôi không lầm thì giờ đây cậu ta đã là con trai của ông”.

A’one sửa lại “Con trai nuôi của tôi, vì cậu đã giết cha của nó”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

30#
 Tác giả| Đăng lúc 26-12-2013 20:19:37 | Chỉ xem của tác giả
“Cha của cậu ta bị giết ngoài trận mạc”.

“Ông ta bị giết trong vũng máu lạnh trên đường phố Paris”.

“Chính Sabri đã biến Paris thành một bãi chiến trường dưới sự ủng hộ của ông, thưa ngài”.

Không gian chìm vào im lặng. A’one dường như tìm sự cẩn trọng trong lời nói của mình hơn. “Tôi biết rằng một ngày nào đó cậu sẽ đến buông lời khiêu khích Khaled để trừ khử nó. Đó là lý do tại sao sau đám tang của Sabri, tôi đã gửi đứa trẻ đó đi xa khỏi nơi này. Tôi cho nó một cuộc sống mới và nó đón nhận điều đó. Tôi không gặp cũng không nghe được bất cứ điều gì về Khaled nữa kể từ khi nó trưởng thành”.

“Chúng tôi có bằng chứng chứng tỏ Khaled al-Khafifa có liên quan đến vụ tấn công vào tòa đại sứ của nước tôi tại Rome”.

A’one gạt phăng. “Không hề có chuyện đó”.

“Vậy nếu Khaled không liên can gì đến Rome, chắc ông không phiền cho chúng tôi biết có thể tìm thấy cậu ta ở đâu chứ”.

“Như tôi đã nói, tôi không biết hiện giờ Khaled ở đâu”.

“Hiện giờ cậu ta tên gì?”

A’one mỉm cười đầy hàm ý. “Tôi đã đi một chặng đường dài để bảo vệ đứa trẻ khỏi cậu và Sở tình báo đầy hận thù của cậu. Điều gì khiến cậu nghĩ tôi sẽ nói nơi ở của Khaled? Cậu nghĩ tôi giống như tông đồ Judas Iscariot, sẵn sàng đem trao con trai tôi cho cậu phán xét và hành quyết ư?”. A’one lắc đầu nhè nhẹ. “Tôi biết có rất nhiều kẻ phản bội trong nội bộ của mình, nhiều người đang làm việc tại Mukata này, nhưng tôi không phải là một kẻ trong số chúng. Nếu cậu muốn tìm Khaled, cậu hãy tự đi mà”.

“Có một cuộc tấn công vào nhà trọ ở Milan ngay sau vụ nổ bom. Một trong những người đàn ông trốn ở đó tên là Daoud Hadawi, một người Palestine từng là thành viên trong đội cận vệ của ông”.

“Cậu cứ nói tiếp đi”.

“Tôi rất cảm kích nếu có được một bản hồ sơ cá nhân của Hadawi”.

“Có đến vài trăm người làm việc cho Đội cận vệ đó. Nếu người đàn ông đó…”. “A’one ngập ngừng. “Tên anh ta là gì nhỉ?”

“Daoud Hadawi”.

“À, vâng, Hadawi. Nếu anh ta từng phục vụ trong Đội cận vệ và nếu chúng tôi vẫn còn giữ hồ sơ cá nhân của anh ta, tôi sẽ vui lòng đưa nó cho cậu. Nhưng chúng tôi không có nhiều thời gian rảnh rỗi đến thế”.

“Vậy ư?”

“Để tôi làm rõ điều này”, A’one nói. “Chúng tôi, những người Palestine chẳng hề dính líu gì đến cuộc tấn công vào tòa đại sứ nước cậu ở Rome cả. Có thể là lực lượng Hezbollah hoặc Osama. Hoặc cũng có thể là những kẻ phát xít mới. Có Thánh Allah mới biết được đó là ai, vì đất nước cậu có quá nhiều kẻ thù”.

Gabriel chống tay lên thành ghế và chuẩn bị đứng dậy. A’one đưa tay lên. “Khoan đã, Jibril”, ông ta nói sử dụng tên gọi của Gabriel theo cách nói của người Arập. “Đừng đi vội. Hãy ở lại đây thêm một lát nữa”.

Trong một giây, Gabriel dịu lại. A’one loay hoay với chiếc khăn trùm đầu rồi ra lệnh cho Đại tá Kemel ra ngoài để họ ở lại một mình bằng tiếng Arập.

“Cậu còn chưa đụng đến tách trà nữa, Jibril. Cậu muốn dùng thêm gì không? Một chút đường chăng?”

Gabriel lắc đầu. A’one khoanh tay lại và chăm chú nhìn Gabriel rồi mỉm cười. Ở Gabriel có điểm gì đó khác biệt khiến A’one thích thú.

“Tôi biết những gì cậu đã làm cho tôi ở New York vài năm về trước. Nếu không có cậu, Tiriq đã giết chết tôi trong căn hộ đó. Đến một lúc nào đó, có thể cậu lại ước giá như hắn mưu sát thành công”. A’one nở một nụ cười chua chát. “Ai biết được! Một lúc nào đó biết đâu lại là cậu, Jibril, đứng đó với khẩu súng trong tay”.

Gabriel không đáp lại. Giết A’one chăng? Những tuần sau sự kiện ở Viên, anh luôn bị ám ảnh bởi phần da thịt hóa than của vợ và cơ thể bầm nát của đứa con trai. Đúng là rất nhiều lần anh đã nghĩ đến chuyện giết A’one. Trong tận sâu thẳm tâm hồn, anh ao ước điều đó dù phải đổi cả mạng sống của mình.

“Thật lạ, Jibril à, nhưng đã có một thời gian ngắn chúng ta trở thành những đồng minh, cậu và tôi. Cả hai chúng ta đều muốn hòa bình, đều cần hòa bình”.

“Có phải ông muốn hòa bình không, hay đó chỉ là một phần trong chiến lược của ông để hủy diệt Israel và thâu tóm toàn bộ dải đất này?”

Lần này là đến lượt A’one không đáp lại câu hỏi đó cứ lơ lửng trong không trung.

“Tôi nợ cậu mạng sống này, Jibril, và vì vậy tôi sẽ giúp cậu. Không có ai là Khaled cả. Khaled chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng của cậu mà thôi. Nếu còn tiếp tục săn đuổi nó, cậu sẽ để những kẻ sát nhân thực sự trốn thoát”.

Gabriel đứng bật dậy, kết thúc cuộc gặp mặt. A’one bước đến và đặt tay lên vai Gabriel. Các thớ thịt của Gabriel như bốc cháy nhưng anh không thể làm gì để dứt ra khỏi cái siết chặt đó.

“Tôi vui vì cuối cùng chúng ta đã chính thức gặp nhau”, A’one nói. “Nếu tôi và cậu có thể ngồi cùng nhau trong hòa bình, có lẽ sẽ mọi chuyện sẽ trở nên tốt đẹp hơn cho tất cả chúng ta”.

“Có lẽ thế”, Gabriel nói, dù rằng giọng nói của anh lộ rõ vẻ không tin tưởng vào điều đó.

A’one buông Gabriel ra và tiễn anh ra cửa, đột nhiên ông dừng lại. “Cậu làm tôi ngạc nhiên đấy Jibril”.

“Sao lại thế?”

“Tôi đã nghĩ rằng cậu sẽ nhân cơ hội này để làm sáng tỏ mọi chuyện xảy ra ở Viên”.

Cố ý che giấu sự thật về số phận hiện tại của Leah, Gabriel nói với A’one. “Ông đã giết vợ và con trai tôi. Tôi không nghĩ là chúng ta cần làm sáng tỏ chuyện này thêm nữa”.

A’one lắc đầu. “Không, Jibril, tôi không giết họ. Tôi đã lệnh cho Tariq giết cậu để trả thù cho Abu Jilhad. Tôi dặn dò hắn kĩ càng rằng không được phép đụng đến gia đình cậu”.

“Sao ông lại yêu cầu như thế?”

“Bởi vì cậu xứng đáng được điều đó. Cậu xử sự rất đúng mực vào cái đêm ở Tunis. Phải, cậu đã giết Abu Jihad, nhưng cậu không hề làm hại đến vợ con anh ta. Thực sự thì trước khi thoát ra khỏi ngôi biệt thự đó, cậu đã dừng lại để an ủi con gái của Abu Jihah và dặn nó chăm sóc mẹ. Cậu còn nhớ không Jibril?”

Gabriel nhắm mắt lại và gật đầu. Khung cảnh ở Tunis luôn ám ảnh anh mỗi đêm, giống như vụ đánh bom ở Viên.

“Tôi thấy cậu chỉ nên bị trừng phạt giống như những gì Abu Jihad đã phải nhận. Đó là cái chết của một người lính dưới sự chứng kiến của vợ và con cậu. Tariq đã không đồng ý với tôi về điều này. Hắn ta thấy rằng cậu đáng chịu một sự trừng phạt khắc nghiệt hơn nữa, đó là chứng kiến vợ con mình chết. Vì vậy hắn ta đã lên kế hoạch đặt bom xe họ và sắp xếp vụ nổ xảy ra dưới sự chứng kiến của cậu. Vụ ở Viên là do Tariq làm, không phải là chủ mưu của tôi”.

Điện thoại trên bàn A’one rung lên, xé toang ký ức của Gabriel về Viên như một con dao rọc ngang bức tranh sơn dầu vậy. A’one quay ngoắt lại bàn điện thoại và để Gabriel tự ra về. Đại tá Kemel đang chờ ngay đầu cầu thang. Ông ta lặng lẽ dẫn Gabriel qua khu đổ nát của Mukata. Một luồng sáng chói chang đập vào mắt anh khi bước ra màn tối u ám của văn phòng A’one. Bên ngoài cánh cổng gẫy, Yonatan đang chơi bóng cùng một số lính canh người Palestine. Họ leo lên chiếc xe bọc thép và lái xuyên qua các con đường tử thần. Vừa rời khỏi Ramallah, Yonatan hỏi Gabriel xem liệu anh có lấy được tin tức gì hữu ích không.

Gabriel nói một cách chắc chắn. “Khaled al-Khalifa đã đánh bom tòa đại sứ của chúng ta ở Roma”.

“Còn gì nữa không?”

Gabriel nghĩ là còn. Chính A’one đã đích thân ra lệnh cho Tariq al-Hourani giết vợ và con trai mình.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách