Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Hoả Thần | Daniel Silva (Hoàn + Ebook)

[Lấy địa chỉ]
71#
 Tác giả| Đăng lúc 31-12-2013 09:47:11 | Chỉ xem của tác giả
“Người Pháp hả? Sớm hai tiếng đồng hồ. Ngài Thủ tướng đã gọi điện trực tiếp cho Grey Poupon. Grey Poupon nói vài lời đã được cân nhắc kỹ càng. Rồi ông ta nâng mức báo động khủng bố lên màu đỏ. Anh không nghe tin tức gì về chuyện này sao?”

Gabriel kể cho Navot nghe về chiếc radio bị phá hỏng. “Lần đầu tiên tôi cảm nhận được an ninh được thắt chặt là lúc tôi đi bộ trong nhà ga”. Anh nuốt một ngụm rượu. “Ngài Thủ tướng đã cho họ biết những gì?”

Navot thuật lại với Gabriel những chi tiết anh biết về cuộc đối thoại giữa hai vị nguyên thủ quốc gia.

“Họ giải thích thế nào về sự hiện diện của tôi ở Mác-xây?”

“Họ nói anh đến truy tìm một kẻ có liên quan tới vụ đánh bom ở Rome”.

“Khaled?”

“Tôi không nghĩ họ tiết lộ thông tin cụ thể”.

“Có điều gì đó mách bảo tôi rằng chúng ta phải thẳng thắn trong chuyện này. Tại sao họ chờ quá lâu mới báo cho người Pháp biết?”

“Rõ ràng là họ hy vọng anh sẽ quay lại. Họ cũng cần đảm bảo rằng tất cả các thành viên trong nhóm Mác-xây đã rời khỏi đất Pháp”.

“Họ thoát kịp không?”

Navot gật đầu.

“Tôi cho rằng chúng ta có thể coi như mình đã gặp may khi ngài Thủ tướng thông báo chính thức tin này với Điện Élysée”.

“Tại sao vậy?”

Gabriel kể với Navot về ba tên shaheed. “Chúng tôi đã ngồi cùng bàn ở Cairo. Tôi đảm bảo có người đã chụp một tấm ảnh rất đẹp để kỷ niệm dịp đó”.

“Một sự sắp đặt?”

“Được bố trí nhằm làm ra vẻ tôi có liên quan đến âm mưu này”.

Navot nghiêng đầu về phía phòng khách. “Cô ấy có ăn chút gì không?”

“Cứ để cô ấy ngủ”.

Navot thả nhẹ một quả trứng ốp-la vào đĩa và đặt nó trước mặt Gabriel.

“Món đặc sản trong nhà đây: nấm, phô-mai Gruyère, rau thơm”.

“Tôi chưa ăn gì trong ba mươi sáu tiếng đồng hồ qua. Khi nào thanh toán xong món trứng, tôi dự định sẽ xơi luôn cả cái đĩa”.

Navot bắt đầu đập thêm trứng vào bát đánh trứng. Công việc của anh bị gián đoạn vì đèn đỏ nhấp nháy trên chóp máy điện thoại. Anh chộp lấy ống nghe, lắng nghe trong giây lát, đoạn rì rầm vài lời bằng tiếng Do Thái rồi cúp máy. Gabriel ngước nhìn lên từ đĩa thức ăn.

“Chuyện gì thế?”

“Đại lộ King Saul. Kế hoạch thoát thân giành cho anh sẽ sẵn sàng trong một giờ nữa”.

Trên thực tế, họ chỉ phải chờ 40 phút. Thông điệp được gửi đến căn hộ an toàn bằng đường fax bảo mật - 3 trang giấy tiếng Do Thái, được soạn bằng Naka, mật mã riêng của Văn phòng. Navot, ngồi cạnh Gabriel nơi bàn bếp, tay cầm bảng giải mã.

“Hiện đang có một chiếc máy bay El Al được thuê đang đậu trên đất Warsaw”, Navot nói.

“Người Do Thái gốc Ba Lan về thăm cố quốc?”

“Đúng hơn là về thăm hiện trường tội ác. Đó là một “tua” du lịch trọn gói đến toàn các trại sát sinh của bọn Quốc Xã”. Navot lắc đầu. Anh đã có mặt bên cạnh Gabriel và Radek trong đêm ở Treblinka. Họ đã đi dạo qua đống tro tàn để quan sát mọi thứ dưới góc nhìn của những kẻ sát nhân. “Lý do có người muốn đến một nơi như thế vượt quá tầm hiểu biết của tôi”.

“Khi nào chuyến bay khởi hành?”

“Tối mai. Một trong những hành khách sẽ được yêu cầu tình nguyện thực hiện một sứ mệnh khá đặc biệt - về nhà với một hộ chiếu Israel giả từ một điểm khởi hành khác”.

“Và Leah sẽ thế chỗ trên chuyến bay đó?”

“Chính xác”.

“Đại lộ King Saul đã tìm được người tình nguyện nào chưa?”

“Đã tìm được 3 người. Hiện nay họ đang lựa chọn”.

“Họ sẽ giải thích thế nào về tình trạng của Leah?”

“Bị bệnh”.

“Chúng ta sẽ đưa cô ấy đến Warsaw bằng cách nào?”

Chúng ta?”. Navot lắc đầu. “Anh sẽ về nhà theo một lộ trình khác: đi đường bộ sang Ý, đến đêm sẽ có người đón anh ở bãi biển Fiumicino. Hình như anh đã quá quen với nơi đó?”

Gabriel gật đầu. Anh biết bãi biển đó rất rõ. “Vậy Leah sẽ đến Warsaw bằng cách nào?”

“Tôi sẽ đưa cô ấy đi”. Navot nhận thấy vẻ ngần ngại trong mắt Gabriel. “Đừng lo. Tôi sẽ không để bất cứ chuyện gì xảy ra với vợ anh đâu. Tôi sẽ hộ tống cô ấy trên chuyến bay về nhà. Trong đoàn du khách có ba bác sỹ. Cô ấy sẽ không sao đâu”.

“Còn khi cô ấy về đến Israel?”

“Một đội từ Dưỡng trí viện Mount Herzl sẽ chờ sẵn để tiếp nhận”.

Gabriel suy nghĩ một lúc. Rõ ràng anh đang không có một ý kiến nào tốt hơn kế hoạch này.

“Tôi sẽ vượt biên bằng cách nào?”

“Anh còn nhớ chiếc xe thùng hiệu Volkswagen chúng ta đã sử dụng trong vụ Radek chứ?”

Gabriel nhớ. Nó có một khoang bí mật bên dưới chiếc giường xếp phía sau. Radek, bị trúng thuốc và bất tỉnh nhân sự, đã được giấu ở đó khi Chiara chở anh ta qua biên giới ÁO - Séc.

“Tôi đã mang nó về Paris sau chiến dịch đó”. Navot nói. “Nó hiện đang nằm trong một ga-ra ở quận 17”.

“Anh thu dọn lại nó rồi chứ?”

Navot cười lớn. “Nó sạch sẽ rồi”, anh nói. “Quan trọng hơn là nó sẽ chở anh qua được biên giới và xuôi xuống bãi biển Fiumicino”.

“Ai sẽ đưa tôi đến Ý?”

“Moshe có thể đảm nhiệm việc đó”.

Cậu ta? Cậu ta chỉ là một đứa con nít”.

“Cậu ấy biết cách tự xoay sở”, Navot nói. “Vả lại, còn ai hơn được Moshe trong việc đưa anh về Miền Đất Hứa?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

72#
 Tác giả| Đăng lúc 31-12-2013 09:50:30 | Chỉ xem của tác giả
Chương 31

FIUMICINO, ITALY

Tín hiệu kia rồi. Hai chớp ngắn, theo sau là một chớp dài”.

Moshe bật cần gạt nước và chồm người qua vô-lăng của chiếc Volkswagen. Gabriel ngồi điềm tĩnh trên ghế hành khách. Anh rất muốn bảo anh chàng là cứ thư giãn đi, nhưng rồi anh quyết định để mặc anh ta tận hưởng khoảnh khắc hồi hộp của mình. Những nhiệm vụ trước đây của Moshe chỉ bao gồm chuẩn bị thực phẩm cho các căn hộ an toàn và dọn dẹp nhà cửa sau khi các điệp viên đã rời khỏi thành phố. Một cuộc hội ngộ bí mật vào lúc nửa đêm trên một bãi biển của nước Ý hẳn nhiên sẽ trở thành điểm nhấn trong sự nghiệp cộng tác của anh với Văn phòng.

“Chúng lại xuất hiện lần nữa kìa”, tay bodel nói. “Hai chớp ngắn…”

“Và tiếp đó là một chớp dài. Tôi đã nghe cậu nói câu đó một lần rồi”. Gabriel vỗ vào lưng chàng trai trẻ. “Xin lỗi, hai ngày qua thật dài đối với tôi. Cám ơn cậu đã đưa tôi đi. Hãy cẩn thận trên đường về, và nhớ sử dụng…”

“Một con đường khác để qua biên giới”, anh chàng tiếp lời. “Tôi nghe anh nói câu đó bốn lần rồi”.

Gabriel trèo ra khỏi chiếc xe thùng và băng qua khu đậu xe nhìn xuống bãi biển, đoạn anh nhảy qua một bức tường đá thấp, và đi bộ trên cát đến tận mép nước. Anh đứng đợi ở đó, mặc cho những ngọn sóng nối đuôi nhau vỗ nhẹ qua giày, mắt anh chăm chú nhìn chiếc xuồng máy đang tiến lại gần. Giây lát sau anh đã ngồi trên mũi xuồng, lưng quay về phía Yaakov và mắt nhìn về phía tàu Fidelity.

“Lẽ ra anh không nên đi”, Yaakov gào lớn để át tiếng sóng vỗ rì rào bên mạn thuyền.

“Nếu ở lại Mác-xây, tôi sẽ chẳng bao giờ đưa được Leah về”.

“Nhưng anh không biết chắc là có đưa được Leah về hay không. Có thể Khaled sẽ chơi ván bài đó theo một cách hoàn toàn khác”.

Gabriel ngoảnh đầu lại. “Anh nói đúng, Yaakov. Hắn sẽ chơi theo cách khác. Đầu tiên hắn sẽ giết Leah, và để xác cô ấy nằm trên một con đường nào đó ở miền nam nước Anh. Sau đó hắn sẽ cho ba tên shaheed vào ga Lyon và biến nó thành đống gạch vụn”.

Yaakov giảm ga. “Việc anh đã làm là hành động ngu ngốc nhất mà tôi từng thấy”. Rồi, bằng giọng cảm thông, Yaako thêm vào: “Và cho đến nay cũng là hành động dũng cảm nhất. Họ nên gắn một chiếc huy chương lên ngực áo anh khi chúng ta về đến Đại lộ King Saul”.

“Tôi đã sập bẫy Khaled. Người ta không trao huy chương cho những điệp viên tự lao đầu vào bẫy đâu. Họ chỉ mang những người đó bỏ ra sa mạc làm mồi cho lũ kền kền và bò cạp thôi”.

Yaakov lái chiếc xuồng về phía đuôi tàu Fidelity. Gabriel leo lên bậc bơi và trèo cầu thang lên boong tàu. Dina đang đợi anh ở đó. Nàng mặc một chiếc áo len dày, và gió biển đang thổi tung mái tóc đen của nàng. Nàng chạy ào tới và ôm choàng lấy cổ anh.

“Giọng của cô ta”, Gabriel nói. “Tôi muốn nghe lại giọng nói của cô ta”.

Dina cho cuộn băng vào máy và bấm nút PLAY.

“Chúng mày đã làm gì cô ấy? Cô ấy đang ở đâu?”

“Chúng tôi đã có cô ấy, nhưng tôi không biết cô ấy đang ở đâu”.

“Cô ấy đang ở đâu? Trả lời ngay! Đừng nói với ta bằng tiếng Pháp. Hãy nói bằng tiếng mẹ đẻ của cô. Hãy nói với ta bằng tiếng Arập”.

“Tôi đang nói với anh sự thật”.

“Vậy là cô biết tiếng Arập. Cô ấy đang ở đâu? Trả lời đi, nếu không cô sẽ chết”.

“Nếu anh giết tôi, anh sẽ tự hủy hoại bản thân anh - và vợ anh nữa. Tôi là hy vọng duy nhất của anh”.

Gabriel bấm nút STOP, rồi REWIND, rồi PLAY.

“Nếu anh giết tôi, anh sẽ tự hủy hoại bản thân anh - và vợ anh nữa. Tôi là hy vọng duy nhất của anh”.

STOP. REWIND. PLAY.

“Tôi là hy vọng duy nhất của anh”.

STOP.

Anh ngước nhìn Dina. “Em đã tìm trong cơ sở dữ liệu chưa?”

Cô gật đầu. “Không có trong hồ sơ lưu”.

“Không quan trọng”, Gabriel nói. “Tôi có thứ còn quan trọng hơn giọng nói của cô ả”.

“Đó là cái gì?”

“Câu chuyện của cô ta”.

Anh kể cho Dina nghe câu chuyện ngập tràn đớn đau và mất mát mà Palestina đã thổ lộ với anh trong những dặm đường cuối cùng trước khi đến Paris. Gia đình ả đã trôi dạt từ Sumayriyya đến Tây Galilee ra sao; họ bị trục xuất trong chiến dịch Ben-Ami và buộc phải sống lưu vong ở Libăng như thế nào.

“Sumayriyya? Đó là một nơi rất nhỏ, phải không? Chắc chỉ khoảng một nghìn dân?”

“Tám trăm, theo lời cô ả. Cô ta có vẻ biết rõ về quá khứ của mình”.

“Không phải mọi người ở Sumayriyya đều tuân thủ lệnh di tản”, Dina nói. “Vẫn còn một số người ở lại”.

“Và một số người đã lẻn được về trước khi biên giới bị đóng cửa. Nếu ông nội của cô ả thực sự là một trong những 'trưởng lão' của làng, chắc chắn sẽ có người nhớ ra ông ta”.

“Nhưng cho dù chúng ta phát hiện được tên của cô ả, thì nó có lợi gì? Cô ta chết rồi. Làm thế nào cô ta giúp chúng ta tìm ra Khaled?”

“Cô ta yêu hắn”.

“Ả thú nhận với anh điều đó à?”

“Tôi tự biết”.

“Anh nhạy cảm thật đấy. Anh còn biết điều gì nữa về cô gái này?”

“Tôi nhớ diện mạo của cô ta”, anh đáp. “Tôi nhớ chính xác cô ta trông thế nào”.

Cô tìm thấy một tập giấy không kẻ ô trên cầu phao; hai cây bút chì loại thường trong ngăn chứa đồ linh tinh ở nhà bếp. Gabriel nằm dài trên trường kỷ và làm việc dưới ánh sáng của ngọn đèn halogen dùng để đọc sách. Dina tìm cách nhìn trộm qua vai anh, nhưng anh quẳng cho cô một cái nhìn nghiêm khắc và đuổi nàng ra ngoài boong tàu và chờ cho tới khi anh hoàn tất bức vẽ. Cô đứng tựa vào lan can tàu, lơ đãng ngắm nhìn ánh đèn trải dài lung linh trên bờ biển nước Ý rồi mờ dần nơi đường chân trời. Mười phút sau, cô trở lại phòng khách và thấy Gabriel đã ngủ say trên trường kỷ. Bức chân dung ả phụ nữ người Palestine đã chết nằm bên cạnh anh. Dina tắt đèn và để yên cho anh ngủ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

73#
 Tác giả| Đăng lúc 31-12-2013 09:52:15 | Chỉ xem của tác giả
Một chiếc tàu khu trục Israel cặp vào mạn phải tàu Fidelity vào buổi chiều ngày thứ ba. Hai giờ sau, Gabriel, Yaakov và Dina đã đặt chân xuống bãi đáp máy bay trực thăng của một căn cứ không quân bí mật ở phía bắc Tel Aviv. Một “ủy ban đón tiếp” do Văn phòng phái tới đang đợi họ. Những người này đứng thành vòng tròn và tỏ vẻ rất lãnh đạm, như những người lạ trong một lễ tang. Lev không xuất hiện, nhưng không ai ngạc nhiên vì Lev vốn chẳng bao giờ bận tâm đến những chuyện tầm thường như đón các điệp viên trở về sau những sứ mệnh hiểm nghèo. Gabriel, ngay khi bước chân ra khỏi trực thăng, đã thở phào nhẹ nhõm khi nhìn thấy chiếc Peugoet bọc thép đang chạy vào qua các cánh cổng và phóng như bay qua đoạn đường trải nhựa trộn đá dăm. Không nói một lời, anh tự tách mình ra khỏi những người còn lại và tiến về phía chiếc xe.

“Anh đi đâu đấy, Allon?”. Một người trong đám nhân viên của Lev kêu to.

“Về nhà”.

“Sếp muốn gặp anh ngay bây giờ”.

“Vậy thì có lẽ ông ta nên hủy một hoặc hai cuộc hẹn để đích thân đến đây gặp chúng tôi. Nói với Lev là sáng mai tôi sẽ trình diện. Tôi có vài việc riêng phải giải quyết. Bảo với ông ta như thế”.

Cửa sau của chiếc Peugeot bật mở, và Gabriel bước vào trong. Shamron chào Gabriel trong im lặng. Trông ông già đi thấy rõ sau khoảng thời gian Gabriel vắng mặt. Bàn tay châm xì-gà của ông run nhiều hơn bình thường. Khi chiếc xe phóng về phía trước, ông đặt một tờ báo Le Monde vào lòng Gabriel. Gabriel nhìn xuống và thấy hai bức ảnh của mình - một ở nhà ga Lyon, trong khoảnh khắc ngay trước vụ nổ, và bức còn lại tại hộp đêm của Mimi Ferrere ở Cairo, ngồi cùng bàn với ba tên shaheed.

“Tất cả đều chỉ là suy đoán”, Shamron nói, “và do đó hậu quả càng nặng nề. Bọn họ ám chỉ rằng anh có liên quan tới âm mưu đánh bom nhà ga, theo một cách nào đó”.

“Và động cơ của tôi có thể là gì?”

“Tất nhiên là để hạ uy tín của người Palestine. Khaled đã chơi rất đẹp. Hắn đánh bom nhà ga Lyon và đổ tội cho chúng ta”.

Gabriel đọc lướt qua vài đoạn đầu của bài báo. “Rõ ràng là hắn có nhiều bạn bè giữ những chức vụ quan trọng - ít nhất là ở các cơ quan tình báo của Ai Cập và Pháp. Mubarat đã theo dõi tôi ngay từ khi tôi đặt chân đến Cairo. Bọn họ chụp ảnh tôi ở hộp đêm, và sau vụ đánh bom, họ gửi tấm ảnh đó cho cơ quan DST của Pháp. Khaled là kẻ giật giây toàn bộ vụ việc”.

“Không may là câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó. Sáng hôm qua David Quinnel được phát hiện đã bị giết trong căn hộ của hắn ở Cairo. Đảm bảo là chúng ta cũng sẽ bị đổ tội về vụ đó”.

Gabriel trả tờ báo cho Shamron, và ông đặt nó trở về chỗ cũ trong cặp của mình. “Cơn địa chấn đã bắt đầu. Theo lịch trình, Ngoại trưởng của chúng ta sẽ đến thăm Paris trong tuần tới, nhưng lời mời đã bị hủy bỏ. Có những tin đồn về sự rạn nứt tạm thời trong các mối quan hệ và họ đã trục xuất các nhà ngoại giao. Chúng ta phải thoát khỏi vụ này một cách sạch sẽ mới mong tránh được một sự đổ vỡ nghiêm trọng trong các mối quan hệ với Pháp và phần còn lại của cộng đồng châu Âu. Tôi cho rằng cuối cùng rồi chúng ta cũng sẽ khắc phục được thiệt hại, nhưng chỉ ở một mức độ nhất định thôi. Nói cho cùng, đến tận bây giờ nhiều người Pháp vẫn tin rằng chúng ta là những kẻ đã phóng những chiếc máy bay đó vào Trung tâm Thương mại Thế giới. Làm sao chúng ta thuyết phục được họ rằng chúng ta chẳng dính dáng gì đến vụ đánh bom nhà ga Lyon?”

“Nhưng ông đã cảnh báo họ trước khi vụ nổ bom xảy ra”.

“Đúng vậy, nhưng những kẻ ưa thêu dệt dựa trên những câu chuyện bí ẩn sẽ chỉ coi đó là chứng cứ càng làm rõ hơn tội lỗi của chúng ta. Làm thế nào chúng ta biết được quả bom sẽ nổ vào lúc 7 giờ trừ khi chúng ta có liên quan đến âm mưu đó? Chúng ta sẽ phải công khai một vài hồ sơ mật, trong đó bao gồm cả cậu”.

“Tôi ư?”

“Người Pháp rất muốn nói chuyện với cậu”.

“Bảo với họ là sáng thứ hai tôi sẽ đến trình diện tại Đại sứ quán. Nhờ họ sắp xếp cho tôi một phòng ở khách sạn Crillon. Tôi chưa bao giờ có may mắn được ở trong một phòng hạng sang của khách sạn đó”.

Shamron cười phá lên. “Tôi sẽ bảo vệ cậu khỏi người Pháp, nhưng Lev thì lại khác”.

Ủy ban bức tử chứ gì?

Shamron gật đầu. “Cuộc điều tra sẽ được bắt đầu vào ngày mai. Cậu là nhân chứng thứ nhất. Cậu nên chuẩn bị sẵn tinh thần cho một cuộc tra khảo kéo dài trong nhiều ngày và sẽ vô cùng khó chịu”.

“Tôi có nhiều việc hay hơn để làm thay vì ngồi chết dí trước ủy ban của Lev”.

“Ví dụ như?”

“Săn lùng Khaled”.

“Và cậu định làm việc đó bằng cách nào?”

Gabriel kể cho Shamron về ả phụ nữ đến từ Sumayriyya.

“Còn ai khác biết chuyện này không?”

“Chỉ có Dina thôi”.

“Hãy theo đuổi hắn một cách âm thầm”, Shamron nói, “và vì Chúa, đừng để lại bất kỳ dấu vết nào”.

“A’one đã nhúng tay vào vụ này. Ông ta cố tình trao cho chúng ta gã Mahmoud Arwish và sau đó giết gã để xóa dấu vết. Và bây giờ thì ông ta tha hồ gặt hái những phần thưởng về mặt quan hệ quốc tế bằng cách vu vạ về sự dính líu của chúng ta trong vụ đánh bom tại ga Lyon”.

“Ông ta đã bắt đầu rồi”. Giới truyền thông quốc tế đang xếp hàng bên ngoài trại Mukata để đợi tới lượt phỏng vấn ông ta. Chúng ta chẳng sờ được tới một sợi lông chân của lão ta đâu”.

“Vậy là chúng ta không làm gì cả và phải nín thở vào ngày 18 tháng 4 hàng năm trong khi chờ đợi một tòa đại sứ hoặc giáo đường tiếp theo của chúng ta nổ tung à?” Gabriel lắc đầu. “Không, Ari, tôi sẽ săn lùng hắn”.

“Cố gắng đừng nghĩ đến chuyện đó vào lúc này”. Shamron vỗ nhẹ vai anh. “Hãy nghỉ ngơi một chút. Đến gặp Leah. Rồi giành một ít thời gian cho Chiara”.

“Phải”, Gabriel đáp. “Một buổi tối được thư giãn sẽ tốt hơn cho tôi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

74#
 Tác giả| Đăng lúc 31-12-2013 18:15:05 | Chỉ xem của tác giả
Chương 32

JERUSALEM

Shamron đưa Gabriel đến Dưỡng trí viện Mount Herzl. Trời bắt đầu tối khi anh đi bộ theo con đường có hai hàng cây xanh thẳng tắp hai bên dẫn đến cổng chính của bệnh viện. Bác sĩ mới của Leah chờ anh ở hành lang. Mập mạp và đeo cặp kính cận, vị bác sĩ có chòm râu dài của một giáo trưởng Do Thái giáo và tác phong vui vẻ dễ gần thật dễ chịu. Ông tự giới thiệu là Mordecai Bar-Zvi, rồi nắm lấy cánh tay Gabriel và dắt anh đi qua một hành lang đá vôi Jerusalem mát rượi. Bằng cả điệu bộ và lời nói, người thầy thuốc đảm bảo với Gabriel rằng ông am hiểu tường tận về bệnh sử khá đặc biệt của bệnh nhân mới.

“Tôi phải nói rằng có những dấu hiệu cho thấy cô ấy đã vượt qua được cuộc khủng hoảng một cách khá ấn tượng”.

“Cô ấy có nói gì không?”

“Một chút”.

“Cô ấy biết mình đang ở đâu không?”

“Thỉnh thoảng. Tôi có thể chắc chắn một điều: cô ấy rất nóng lòng được gặp anh”. Vị bác sĩ nhìn Gabriel qua phần đỉnh của cặp mắt kính đã ố vàng. “Trông anh có vẻ ngạc nhiên?”

“Đã mười ba năm qua cô ấy không nói một lời nào với tôi”.

Người thầy thuốc nhún vai. “Tôi nghĩ chuyện đó sẽ chẳng bao giờ lặp lại”.

Họ đến trước một cánh cửa. Vị bác sĩ gõ một cái rồi dẫn Gabriel vào trong. Leah đang ngồi trên một chiếc ghế bành bên cửa sổ. Cô ngoái đầu lại khi Gabriel bước vào phòng và thoáng mỉm cười. Anh hôn lên má cô, rồi ngồi xuống cạnh giường. Cô im lặng ngắm anh một lúc, rồi quay đầu và tiếp tục nhìn ra cửa sổ như thể anh không còn ở đó nữa.

Vị bác sĩ chào và đóng cánh cửa khi ra khỏi phòng. Gabriel ngồi đó với cô, chịu đựng sự im lặng trong khi những cây thông bên ngoài đang dần chìm vào bóng tối khi màn đêm buông xuống. Anh ở lại khoảng một tiếng đồng hồ, tới khi một cô y tá vào phòng và nói đã đến giờ cho Leah đi ngủ. Khi Gabriel đứng lên, Leah bỗng quay đầu lại.

“Anh đi đâu thế?”

“Họ nói em cần nghỉ ngơi”.

“Đó là tất cả những gì em làm, nghỉ ngơi suốt cả ngày”.

Gabriel hôn lên môi cô.

“Một nụ…” cô tự dừng lời. “Ngày mai anh sẽ lại đến thăm em chứ?”

“Và cả ngày kia nữa”.

Cô quay đầu đi và nhìn ra cửa sổ.

Không còn chiếc tắc xi nào ở khu vực bệnh viện Mount Herzl, nên anh đành lên một chiếc xe buýt đông nghẹt những người tan sở buổi tối. Tất cả ghế đều đã có người ngồi; anh đứng vào một chỗ trống ở ngay giữa xe và cảm thấy bốn mươi cặp mắt đang soi vào mình. Đến đường Jaffa, anh bước xuống và đứng đợi ở một trạm để đón chuyến xe buýt đi về khu vực phía đông thành phố. Nhưng rồi anh nghĩ lại - mình đã sống sót qua chuyến xe đầu tiên; đi tiếp chuyến thứ hai có vẻ như một hành động mời gọi tai họa - vì vậy anh quyết định cuốc bộ giữa những cơn gió đêm lồng lộng. Anh dừng lại trong giây lát ở lối vào chợ Makhane Yehuda, rồi nhắm hướng đường Narkiss thẳng tiến. Chiara hẳn đã nghe thấy tiếng bước chân của anh vang trên cầu thang, bởi nàng đang đứng chờ anh ở đầu cầu thang bên ngoài căn hộ của họ. Nhan sắc của nàng, sau khi anh đã chứng kiến những vết sẹo của Leah, càng đẹp mê hồn. Nàng chỉ chìa má ra cho Gabriel khi anh cúi xuống hôn nàng. Mái tóc mới gội của nàng thơm mùi va-ni.

Nàng quay gót và đi vào nhà. Gabriel theo sau, rồi chợt khựng lại. Căn hộ đã hoàn toàn thay da đổi thịt: nội thất mới, những tấm thảm và đồ đạc mới, nước sơn mới. Chiếc bàn đã được kê lại và những ngọn nến đã được thắp lên. Chiều dài không còn nguyên vẹn của chúng cho thấy chúng đã thắp được một lúc. Chiara cắt bớt tim nến khi nàng đi ngang qua.

“Đẹp lắm”, Gabriel nhận xét.

“Em đã cố gắng để hoàn tất công việc trước khi anh về. Em muốn nơi này có cảm giác như một ngôi nhà đúng nghĩa. Anh đã đi đâu?”. Nàng cố gắng kìm lại sự trách móc trong giọng nói của mình. Nhưng vốn là một người rất nhanh nhạy trong các tình huống, Gabriel vẫn nhận ra sự trách móc nơi Chiara.

“Chiara, hẳn là em đang đùa?”

“Máy bay của anh hạ cánh cách đây 3 giờ đồng hồ. Và em biết anh không đến Đại lộ King Saul, bởi vì văn phòng của Lev đã gọi điện đến đây tìm anh”. Nàng dừng lại một lát. “Anh đến thăm chị ấy, đúng không? Anh đến thăm Leah”.

“Tất nhiên rồi”.

“Anh không mảy may nghĩ đến chuyện về gặp em trước ư?”

“Cô ấy ở trong bệnh viện mà không biết mình đang ở đâu. Cô ấy rất hoang mang, và hoảng sợ”.

“Em cho rằng Leah và em có rất nhiều điểm giống nhau”.

“Chúng ta đừng thế này, Chiara”.

“Thế này là thế nào?”

Anh đi hết hành lang để đến phòng ngủ. Nó cũng đã được trang trí lại đầy gọn gàng và ấm áp. Trên bàn đầu giường ngủ của Gabriel là những giấy tờ mà, một khi được ký, sẽ chấm dứt cuộc hôn nhân của anh với Leah. Chiara đã để sẵn một cây bút bên cạnh chúng. Anh ngước nhìn lên và thấy nàng đang đứng ở cửa phòng. Nàng đang nhìn anh chăm chú, tìm kiếm trong mắt anh những bằng chứng tiết lộ cảm xúc của anh - như một thám tử quan sát nghi can tại hiện trường tội ác.

“Mặt anh bị làm sao thế?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

75#
 Tác giả| Đăng lúc 31-12-2013 18:16:21 | Chỉ xem của tác giả
Gabriel kể cho nàng nghe về trận đòn mà bọn shaheed đã tặng anh.

“Đau lắm không?”. Nàng hỏi nhưng dường như không thực sự quan tâm.

“Chút chút thôi”. Anh ngồi lên mép giường và lột đôi giày ra. “Em đã biết đến đâu rồi?”

“Shamron kể mọi chuyện cho em nghe ngay khi mọi chuyện xảy ra. Sau đó ông ấy đều đặn cập nhật tin tức cho em trong ngày. Lúc nghe tin anh đã an toàn đó là khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong đời em”.

Gabriel nhận thấy Chiara đã không đả động gì đến Leah.

“Chị ấy ra sao?”

“Leah hả?”

Chiara nhắm mắt lại và gật đầu. Gabriel thuật lại chính xác từng lời của bác sĩ Bar-Zvi: Leah đã vượt qua được cơn khủng hoảng một cách phi thường. Anh cởi áo sơmi. Chiara bụm miệng. Những vết thâm tím trên người anh, sau ba ngày lênh đênh trên biển, đã biến thành màu tím bầm và đen.

“Trông bề ngoài kinh khủng vậy thôi chứ không đến nỗi nào đâu”, anh nói.

“Anh đã đến gặp bác sĩ chưa?”

“Chưa”.

“Cởi quần áo ra đi. Em sẽ pha nước nóng cho anh tắm. Ngâm mình trong nước nóng sẽ giúp anh cảm thấy đỡ hơn”.

Nàng rời khỏi phòng. Vài giây sau anh nghe tiếng nước chảy vào bồn tắm. Anh cởi hết quần áo và đi vào phòng tắm. Chiara xem xét các vết bầm của anh một lần nữa; rồi nàng lùa tay vào tóc anh và nhìn phần chân tóc.

“Nó đủ dài để cắt rồi. Đêm nay em không muốn ân ái với một gã tóc bạc đâu”.

“Thì em cắt đi”.

Anh ngồi trên mép bồn tắm. Như thường lệ, Chiara lẩm nhẩm hát trong khi nàng cắt tóc cho anh - những bản nhạc pop Ý ngô nghê mà nàng rất thích. Gabriel đầu cúi xuống nhìn những lọn tóc bạch kim cuối cùng của ngài Klemp rơi nhẹ xuống sàn. Anh nghĩ về Cairo, về cách anh đã bị lừa, và cơn giận một lần nữa lại sôi lên trong anh. Chiara xếp kéo lại.

“Đấy, bây giờ trông anh lại giống trước rồi. Tóc đen, hơi điểm muối tiêu hai bên thái dương. Shamron hay nói gì về thái dương của anh nhỉ?”

“Ông ấy gọi đó là những vết tro”, Gabriel đáp, “Những vết tro bám trên mình Hỏa Thần”.

Chiara thử nhiệt độ nước trong bồn tắm. Gabriel bỏ khăn tắm ra và thả mình vào trong làn nước. Nước quá nóng - Chiara luôn luôn pha nước quá nóng - nhưng chỉ giây lát sau cơn đau đã bắt đầu rút lui khỏi cơ thể anh. Nàng ngồi bên anh một lúc. Nàng kể về căn hộ, về buổi tối của nàng với Gilah Shamron và mọi chuyện khác trừ nước Pháp. Lát sau nàng đi vào phòng ngủ và cởi trang phục. Nàng hát nho nhỏ. Chiara luôn hát khi cởi quần áo.

Những nụ hôn của nàng, bình thường vốn rất dịu dàng, hôm nay làm đau môi anh. Nàng làm tình với anh một cách điên cuồng, như thể đang cố gắng hút hết Leah ra khỏi dòng máu đang chảy trong huyết quản của anh, và những đầu móng tay của nàng để lại những vết bầm tím mới trên vai anh. “Em tưởng anh đã chết. Em tưởng mình sẽ không bao giờ còn được gặp lại anh”.

“Anh đã chết”, Gabriel đáp. “Anh đã chết từ lâu lắm rồi”.

Những bức tường phòng ngủ của họ ở Venice được trang trí bằng những bức tranh. Chiara, trong thời gian Gabriel vắng mặt, đã đem chúng về treo ở đây. Một số tác phẩm hội họa hiện diện trong căn phòng này được vẽ bởi ông ngoại của Gabriel, Viktor Frankel, họa sỹ trường phái hiện thực nổi tiếng của nước Đức. Những tác phẩm của ông bị bọn Quốc Xã lên án là “đồi trụy” vào năm 1936. Khánh kiệt, bị cấm cả sáng tác lẫn dạy học, ông bị đưa đến trại Auschwitz vào năm 1942 và bị giết bằng hơi ngạt cùng với vợ ngay khi vừa đặt chân đến trại. Mẹ của Gabriel, Irene, cũng bị đày cùng với họ, nhưng Mengele đã đưa bà vào một nhóm lao công, và bà đã sống sót ở trại tập trung nữ ở Birkenau cho tới khi trại này bị sơ tán trước thế tiến công của quân Nga. Một số tác phẩm của bà cũng được treo ở đây, trong phòng tranh cá nhân của Gabriel. Bị dày vò bởi những điều đã chứng kiến tại Birkenau, những bức tranh do bà vẽ luôn luôn cháy bỏng những xúc cảm mãnh liệt mà ngay cả người cha nổi tiếng cũng không sánh kịp. Ở Israel bà sử dụng họ Allon, có nghĩa là cây sồi trong tiếng Do Thái, nhưng luôn luôn ký tên Frankel trên các bức tranh để tỏ lòng tôn kính người cha. Mãi đến bây giờ Gabriel mới có thể thưởng thức và hiểu hết ý nghĩa của những bức tranh này - những bức tranh mà mẹ anh - người phụ nữ đau khổ đã sáng tạo ra.

Chỉ có duy nhất một bức tranh không có chữ ký, bức tranh phác hoạ chân dung của một chàng thanh niên trẻ tuổi, theo phong cách của Egon Schiele. Người họa sĩ thể hiện là Leah, còn nhân vật trong bức tranh chính là Gabriel. Nó được vẽ không lâu sau khi anh trở về Israel với máu của sáu tên khủng bố Palestine nhuốm trên tay, và đó là lần duy nhất anh đồng ý ngồi làm mẫu cho vợ mình vẽ. Anh chưa bao giờ thích bức tranh, bởi nó thể hiện con người anh qua lăng kính của Leah - anh như một thanh niên bị ám ảnh và bị già trước tuổi dưới bóng của thần chết. Chiara không biết bức tranh này, cô nghĩ rằng đó là một bức chân dung tự họa của Gabriel.

Nàng bật đèn ngủ và nhìn những tờ giấy trên côn đầu giường. Đó là một hành động vô ích; nàng biết rằng Gabriel chưa ký.

“Sáng mai anh sẽ ký”, anh nói.

Nàng đưa bút cho anh. “Ký ngay bây giờ đi anh”.

Gabriel tắt đèn. “Thật ra, lúc này anh đang muốn làm chuyện khác”.

Chiara đón nhận thân thể của anh và lặng lẽ khóc trong suốt cuộc ân ái.

“Anh sẽ không bao giờ ký vào đó, đúng không?”

Gabriel cố gắng dỗ yên nàng bằng một nụ hôn.

“Anh đang lừa dối em”, nàng nói. “Anh đang sử dụng thân thể của mình như một vũ khí để gạt gẫm em”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

76#
 Tác giả| Đăng lúc 31-12-2013 18:19:30 | Chỉ xem của tác giả
Chương 33

JERUSALEM

Lịch làm việc của anh mau chóng được lên kế hoạch. Buổi sáng anh dậy sớm và ngồi trong nhà bếp mới được Chiara trang trí lại với tách cà phê và một xấp báo. Những câu chuyện về vụ Khaled khiến anh chán nản một cách sâu sắc. Tờ Ha’aretz đặt cho nó cái tên “Chiến dịch cẩu thả”, và Văn phòng đã thất bại trong cuộc tranh đấu không để tên Gabriel xuất hiện trên mặt báo. Ở Paris, báo chí Pháp bao vây các quan chức chính quyền và đại sứ Israel để tìm lời giải thích cho những bức ảnh bí ẩn đã xuất hiện trên tờ Le Monde. Ngoại trưởng Pháp, một cựu thi sĩ đỏm dáng, đổ thêm dầu vào lửa khi tuyên bố rằng “có thể chính Israel nhúng tay vào cuộc thảm sát ở ga Lyon”. Ngay ngày hôm sau, trái tim của Gabriel trĩu nặng khi anh đọc được tin tức về một tiệm bánh pizza của người Do Thái trên đường Rosiers bị cướp phá. Tiếp theo là vụ một đám thanh niên Pháp tấn công một cô gái bị cho là người Do Thái khi cô đi bộ từ trường về nhà và rạch lên má cô một dấu thập ngoặc. Chiara thường thức dậy sau Gabriel một tiếng đồng hồ. Nàng đọc về các sự kiện ở Pháp với vẻ lo lắng hơn là buồn rầu. Mỗi ngày nàng gọi điện cho mẹ ở Venice một lần để biết chắc rằng gia đình nàng vẫn được an toàn.

Đúng 8 giờ, Gabriel rời Jerusalem và lái xe theo đường Bab al-Wab đến đại lộ King Saul. Các buổi thẩm vấn được tiến hành tại hội trường nằm ở tầng trên cùng để Lev không phải đi xa nếu anh muốn ghé qua theo dõi. Gabriel, dĩ nhiên, là nhân vật trung tâm. Thái độ và những hành vi của anh, kể từ lúc trở về biên chế chính thức của Văn phòng cho tới khi thoát hiểm ở ga Lyon được mổ xẻ cặn kẽ như dưới kính hiển vi vậy. Trái với những tiên đoán bi quan của Shamron, đã không có cuộc “bức tử” nào xảy ra. Các kết quả điều tra phần lớn đều có thể xác định trước, và ngay từ đầu Gabriel đã thấy rằng anh sẽ không bị biến thành vật tế thần. Đây là một sai sót của tập thể, các thành viên của ủy ban điều tra dường như muốn nói như vậy. Gabriel nhận ra điều đó, thông qua giọng điệu trong những câu nói của họ, rằng một lỗi lầm có thể tha thứ được nếu một điệp viên buộc phải hành động liều lĩnh để tránh những thiệt hại thảm khốc về nhân mạng. Mặc dù vậy, đôi khi các câu hỏi vẫn trở thành những lời chỉ trích. Chẳng lẽ Gabriel không mảy may nghi ngờ về động cơ của Mahmoud Arwish? Cũng như không hề nghi ngờ lòng trung thành của David Quinnell? Liệu sự việc có diễn tiến theo chiều hướng khác hay không nếu anh nghe lời các cộng sự ở Mác-xây và trở về thay vì đi theo ả người Palestine đó? Và nếu vậy, thì ít nhất kế hoạch của Khaled nhằm hủy hoại uy tín của Văn phòng đã không thể thành công. “Các ngài nói đúng”, Gabriel trả lời, “và vợ tôi sẽ chết, cùng với nhiều người vô tội khác nữa”.

Lần lượt, những người liên quan khác cũng bị lôi ra trước ủy ban, đầu tiên là Yossi và Rimona, rồi tới Yaakov và cuối cùng là Dina, người đã có những khám phá đầu tiên đưa tới cuộc điều tra về Khaled. Gabriel cảm thấy đau đớn khi phải chứng kiến họ ngồi vào ghế bị cáo. Sự nghiệp của anh đã kết thúc, nhưng đối với những người khác, sau vụ Khaled, giờ đây khi đã bị công khai rộng rãi, sẽ để lại một vết nhơ không bao giờ có thể gột rửa trong hồ sơ của họ.

Đến cuối buổi chiều, khi ủy ban đã giải tán, anh lái xe đến bệnh viện Mount Herzl để thăm Leah. Đôi khi họ ngồi cùng nhau trong phòng của cô; và đôi khi, nếu trời vẫn còn sáng, anh sẽ đặt cô lên một chiếc xe lăn và đẩy cô đi chầm chậm quanh sân. Cô không bao giờ nhận lầm anh và luôn luôn nói được vài lời với anh. Những chuyến đi ảo giác của cô đến Vienna trở nên ít hơn, mặc dù anh không bao giờ biết đích xác vợ mình đang nghĩ gì.

“Dani được chôn ở đâu hả anh?”, một lần cô chợt hỏi, khi họ đang ngồi dưới tán lá xòe rộng của một cây thông.

“Trên núi Ôliu”.

“Lúc nào đó anh đưa em đến thăm con được không?”

“Nếu bác sĩ cho phép”.

Một lần, Chiara theo anh đến bệnh viện. Khi họ vào trong, nàng ngồi chờ ở hành lang và bảo Gabriel vào phòng một mình.

“Em có muốn gặp cô ấy không?”. Chiara chưa bao giờ gặp Leah.

“Không”, nàng đáp, “em nghĩ tốt hơn em nên chờ ở đây. Không phải vì em mà vì chị ấy”.

“Cô ấy sẽ chẳng biết đâu”.

“Chị ấy sẽ biết, Gabriel ạ. Phụ nữ luôn luôn cảm nhận được nếu người đàn ông của họ yêu người khác”.

Họ không bao giờ tranh luận về chuyện của Leah lần nào nữa. Trận chiến của họ, kể từ đó về sau, trở thành một chiến dịch ngầm, mở đầu bằng sự im lặng kéo dài và kết thúc với những lời bóng gió đầy ẩn ý. Chiara không bao giờ đi ngủ mà quên kiểm tra xem những giấy tờ trên đầu giường đã được ký hay chưa. Cách ân ái của nàng cũng ngầm mang vẻ phản kháng như sự im lặng của nàng vào ban ngày. Thân thể em còn nguyên vẹn đây này, dường như nàng muốn nói với anh. Em mới là thực tại. Leah chỉ là ký ức mà thôi.

Căn hộ trở nên ngột ngạt, nên họ quyết định ra ngoài ăn. Có tối họ tản bộ dọc theo đường Ben-Yehuda. Có tối họ đến Mona, một nhà hàng thời thượng, tọa lạc ngay dưới tầng hầm khu giảng đường cũ của Học viện Nghệ thuật Bezalel. Một buổi tối khác, họ lái xe xuôi theo đường cao tốc Số 1 đến Abu Ghosh, một trong những ngôi làng Arập hiếm hoi ven đường còn tồn tại sau những cuộc trục xuất trong Chiến dịch Dalet. Họ ăn món khai vị thịt gà nấu đậu và món sườn cừu nướng ở một nhà hàng lộ thiên ngay tại sân làng, và trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, họ hình dung ra mọi sự đã có thể khác biệt đến mức nào nếu ông nội của Khaled không biến con đường này thành một khu vực giết chóc. Chiara kỷ niệm dịp này bằng cách mua tặng Gabriel một chiếc vòng tay đắt tiền của một xưởng chế tác trang sức bạc trong làng. Buổi tối hôm sau, trên đường King George, nàng mua cho anh một chiếc đồng hồ bằng bạc để đi đôi với chiếc vòng. Những vật kỷ niệm, nàng gọi chúng như thế là những vật để nhắc anh nhớ về em.

Khi họ về đến nhà đêm hôm đó, có một tin nhắn mới trong máy trả lời tự động. Gabriel bấm nút phát lại và nghe giọng nói của Dina Sarid, cô báo với anh rằng cô đã tìm ra một người từng có mặt trong đêm làng Sumayriyya thất thủ.

Chiều hôm sau, khi ủy ban tạm nghỉ, Gabriel lái xe đến đường Sheinkin đón Dina và Yaakov ở một tiệm cà phê ngoài trời. Họ đi về phía bắc theo con đường cao tốc dọc bờ biển, xuyên qua lớp bụi màu vàng đỏ, qua Herzliyya và Netanya. Khi đến cách Caesarea vài dặm, những triền dốc của núi Carmel xuất hiện trước mắt họ. Họ đi vòng qua vịnh Haifa, tiến thẳng về Akko. Gabriel, trong khi tiếp tục lái xe về phía bắc đến Nahariyya, chợt nghĩ về chiến dịch Ben-Ami - cái đêm mà một đoàn xe bọc thép của Haganah hành quân ngay trên con đường này với mệnh lệnh phá hủy các làng mạc của người Arập ở vùng Tây Galilee. Đúng lúc đó anh thoáng thấy một cấu trúc hình tháp kỳ lạ, cứng đờ và trắng toát, nổi bật trên tấm thảm xanh của một vườn cam. Gabriel biết công trình xây dựng lạ lùng đó là đài tưởng niệm các trẻ em đã thiệt mạng ở Yad Layeled, một đài tưởng niệm về Holocaust của khu định cư Lohamei Ha’Getaot. Khu định cư này được thành lập sau chiến tranh bởi những người còn sống sót qua cuộc nổi dậy của người Do Thái ở Warsaw. Ngay bên rìa của khu định cư, và khuất trong đám cỏ dại cao ngất, là những tàn tích của ngôi làng Sumayriyya.

Anh rẽ vào đường nội bộ và vào sâu trong khu định cư. Bóng tối nhanh chóng ập xuống khi họ vừa đến al-Makr. Gabriel dừng lại trên đường cái, vẫn để xe nổ máy, bước vào một quán cà phê và hỏi người chủ quán đường đến nhà Hamzah al-Samara. Câu hỏi của anh được đáp lại bằng sự im lặng khi người đàn ông Arập nhìn Gabriel bằng ánh mắt lạnh lùng từ bên kia quầy bar. Rõ ràng anh ta cho rằng vị khách người Do Thái là một nhân viên Shabak, Gabriel chẳng buồn cải chính. Người Arập dẫn Gabriel trở ra đường và mô tả đường đi cho anh bằng một loạt những chỉ trỏ và điệu bộ.

Đó là ngôi nhà to nhất trong làng. Có vẻ như nhiều thế hệ nhà al-Samara cùng chung sống ở đây, vì có một số trẻ nhỏ đang chơi đùa trong khoảng sân đầy bụi bặm. Ngồi giữa chúng là một cụ già. Ông cụ mặc một chiếc áo galabia dài màu xám, đội khăn kaffiyeh trắng và đang hút thuốc lá bằng một ống điếu. Gabriel và Yaakov đứng bên phía trống trải của khoảng sân và chờ được phép vào trong. Dina ở lại trên xe; vì Gabriel biết rằng ông cụ sẽ không bao giờ muốn nói chuyện thẳng thắn khi có sự hiện diện của một người phụ nữ Do Thái để đầu trần.

Già al-Samara nhìn lên và ra hiệu cho họ chờ bằng một cái phẩy tay. Ông nói vài lời với đứa trẻ lớn nhất, vài giây sau, hai chiếc ghế nữa được mang ra. Rồi một người phụ nữ, có lẽ là con gái cụ, bưng ra ba tách trà. Tất cả diễn ra trước khi Gabriel kịp giải thích cho ông cụ về lý do của chuyến viếng thăm. Họ ngồi im lặng trong giây lát, nhấp một ngụm trà và lắng nghe tiếng ve sầu râm ran ở những cánh đồng xung quanh. Một con dê lon ton chạy vào sân và ủi nhẹ đầu vào mắt cá chân Gabriel. Một cậu bé, mặc áo thụng dài và đi chân đất, kêu xùy xùy để đuổi con vật ra ngoài. Thời gian dường như đã dừng lại. Nếu không có ánh đèn điện chiếu ra từ ngôi nhà, và không có chiếc ăng-ten chảo để thu sóng từ vệ tinh gắn trên mái nhà, Gabriel sẽ dễ dàng tưởng tượng rằng người Palestine vẫn còn cai trị nơi này.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

77#
 Tác giả| Đăng lúc 31-12-2013 18:21:58 | Chỉ xem của tác giả
“Tôi đã làm gì sai à?”, ông cụ hỏi bằng tiếng Arập. Đó là câu hỏi cửa miệng của nhiều người Arập khi đối diện với những người khách không mời mà đến của chính quyền khi họ gõ cửa nhà họ.

“Không”, Gabriel nói, “chúng tôi chỉ muốn nói chuyện”.

“Về việc gì?”

Ông cụ, sau khi nghe Gabriel nói, kéo một hơi thuốc dài tỏ vẻ trầm ngâm. Ông có đôi mắt màu xám sâu thẳm và một bộ ria mép tỉa khéo. Đôi chân mang xăng-đan như thể chưa bao giờ biết viên đá chà chân là vật gì.

“Anh từ đâu đến?”, ông cụ hỏi.

“Thung lũng Jezreel”, Gabriel đáp.

Già al-Samara gật đầu chầm chậm. “Còn trước đó?”

“Cha mẹ tôi đến từ Đức”.

Đôi mắt xám dịch chuyển từ Gabriel sang Yaakov.

“Còn anh?”

“Hadera”.

“Trước đó?”

“Nước Nga”.

“Người Đức và người Nga”, già al-Samara vừa nói vừa lắc đầu. “Nếu không vì người Đức và người Nga, thì bây giờ tôi vẫn đang sống ở Sumayriyya, thay vì ở al-Makr này”.

“Ông đã có mặt trong đêm làng Sumayriyya thất thủ phải không?”

“Không hẳn. Lúc đó tôi đang đi dạo trên một cánh đồng gần làng”. Ông dừng lại và thêm vào một cách bí ẩn. “Với một cô gái”.

“Và khi cuộc pháo kích bắt đầu?”

“Chúng tôi nấp trong cánh đồng và nhìn theo gia đình mình chạy về hướng bắc sang Libăng. Chúng tôi chứng kiến lính Do Thái đặt chất nổ giật sập nhà chúng tôi. Cả ngày hôm sau chúng tôi vẫn trốn ngoài đồng. Khi trời tối, chúng tôi chạy bộ đến đây, đến làng al-Makr này. Những người còn lại trong gia đình tôi, cha mẹ tôi, và các anh chị em, đều chạy sang Libăng”.

“Còn cô gái đã ở cùng ông trong đêm đó?”

“Cô ta trở thành vợ tôi”. Một hơi thuốc dài nữa. “Tôi cũng là một người lưu vong - một người lưu vong tại chỗ. Tôi vẫn còn giữ khế ước đất đai của cha tôi ở làng Sumayriyya, nhưng tôi không thể trở về đó. Người Do Thái đã tịch thu nó và chẳng bao giờ nghĩ đến việc đền bù thiệt hại cho tôi. Tưởng tượng mà xem, một khu định cư Do Thái được những người sống sót qua cuộc Holocaust dựng lên ngay trên đống đổ nát của một ngôi làng Arập”.

Gabriel nhìn quanh ngôi nhà lớn. “Ông tự lo liệu cho mình quá tốt còn gì”.

“Dĩ nhiên là cuộc sống của tôi khá hơn nhiều so với những người phải sống lưu vong. Lẽ ra tất cả chúng tôi đều đã có được những thứ này nếu chiến tranh không nổ ra. Tôi không đổ lỗi cho các anh vì những mất mát của mình. Tôi trách những nhà lãnh đạo của chúng tôi. Nếu Haj Amin và những người khác chấp nhận việc phân chia lãnh thổ, thì miền Tây Galilee đã trở thành một phần của Palestine. Nhưng họ chọn chiến tranh, và đến khi thua trận thì họ khóc lóc rằng người Arập chỉ là những nạn nhân. A’one cũng làm y như thế ở Trại David, phải không? Ông ta ngoảnh mặt làm ngơ trước một cơ hội phân chia đất đai, ông ta châm ngòi một cuộc chiến khác, và đến khi người Do Thái đánh trả, ông ta lại bù lu bù loa rằng mình là nạn nhân. Chẳng biết bao giờ chúng tôi mới khôn ra?”

Con dê quay trở lại. Lần này thì già al-Samara quất cho nó một cú vào mũi bằng cái tẩu thuốc.

“Chắc chắn là các anh chẳng lặn lội đến đây để nghe câu chuyện của một lão già”.

“Tôi đang tìm một gia đình ở cùng làng với ông, nhưng tôi không biết tên của họ”.

“Chúng tôi đều biết nhau rất rõ”, Già al-Samara nói. “Nếu bây giờ chúng ta đi qua những phế tích của làng Sumayriyya, tôi có thể chỉ cho anh nhà của tôi - và nhà của bạn bè tôi, nhà của các anh em họ của tôi nữa. Hãy nói vài điều gì đó về gia đình mà anh cần tìm, tôi sẽ cho anh biết tên của họ”.

Gabriel kể cho cụ nghe những điều mà ả người Palestine đã nói với anh trong những dặm đường cuối cùng trước khi về đến Paris - rằng ông nội của ả là một bậc trưởng lão trong làng, tuy không phải là muktar nhưng vẫn là một người quan trọng, và ông ta sở hữu 60.000 m2 đất cùng với một đàn dê lớn. Ông ta có ít nhất một người con trai. Sau khi Sumayriyya thất thủ, họ chạy về phía bắc, đến Ein al-Hilweh ở Libăng. Già al-Samara lắng nghe những lời mô tả của Gabriel một cách chăm chú nhưng có vẻ hơi lúng túng. Ông gọi vọng vào nhà. Một bà lão, cũng già như ông, xuất hiện ở cửa. Đầu của bà được che kín bởi một chiếc khăn choàng. Bà chỉ nói chuyện với al-Samara, cẩn thận tránh ánh mắt của Gabriel và Yaakov.

“Anh chắc chắn là 60.000 m2 đất?” ông cụ hỏi. “Không phải ba mươi, hoặc hai mươi, mà là sáu mươi?

“Đó là những gì tôi nghe được”.

Ông cụ lại rít tẩu thuốc một cách trầm ngâm. “Anh nói đúng”, ông ta nói. “Gia đình đó đã dừng chân ở Libăng, ở Ein al-Hilweh. Mọi thứ trở nên tồi tệ đối với họ trong suốt cuộc nội chiến Libăng. Bọn trai tráng trong gia đình đó đều trở thành chiến binh. Họ đã chết cả, theo như những gì mà tôi nghe được”.

“Ông có biết họ tên của gia đình đó không?”

“Đó là gia đình al-Tamari. Nếu anh gặp bất cứ ai trong số họ, nhớ chuyển lời hỏi thăm của tôi. Nói với họ rằng tôi đang sống trong nhà của họ. Nhưng đừng kể rằng chúng tôi đã xây dựng nó khang trang như thế nào. Nó sẽ chỉ làm họ thêm đau khổ mà thôi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

78#
 Tác giả| Đăng lúc 31-12-2013 18:29:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 34

TEL AVIV

“Ein al-Hilweh? Mẹ kiếp, anh bị điên rồi hả?”

Đó là vào sáng sớm hôm sau. Lev đang ngồi bên chiếc bàn kính trống không của ông; tách cà phê đang được ông đưa lên miệng bỗng khựng lại nửa chừng. Gabriel đã lẻn vào Văn phòng khi cô thư ký của Lev vào nhà vệ sinh. Lát nữa, khi Gabriel đi khỏi, cô gái đáng thương sẽ bị mắng tơi tả vì tội lơ là cảnh giác.

“Ein al-Hilweh là vùng cấm địa, chấm hết, ngừng thảo luận. Tình hình ở đó hiện nay còn tệ hơn cả hồi năm 1982. Có đến nửa tá tổ chức khủng bố Hồi giáo mở tiệm kinh doanh ở đó. Đó không phải là nơi đi dạo - nhất là với một điệp viên đã được đăng ảnh chân dung đầy trên báo Pháp”.

“Vậy thì một người khác sẽ phải đi”.

“Thậm chí anh còn không biết chắc lão già đó còn sống hay không”.

Gabriel cau mày, anh ngồi xuống một trong những chiếc ghế bọc da bóng mượt êm ái phía trước bàn của Lev mà không cần đợi ông ta mời.

“Nhưng nếu lão còn sống, lão có thể cho chúng ta biết đứa con gái của lão đã đi đâu sau khi ả rời khỏi trại tập trung”.

“Có thể”, Lev đồng ý, “nhưng cũng có thể lão chẳng biết gì cả. Hiển nhiên là Khaled sẽ bảo đứa con gái nói dối gia đình vì lý do an ninh. Dựa trên tất cả những gì chúng ta đã biết, toàn bộ câu chuyện về ngôi làng Sumayriyya có thể chỉ là bịa đặt”.

“Ả chẳng có lý do gì để nói dối tôi”, Gabriel nói. “Ả nghĩ rằng tôi sắp bị giết”.

Lev trầm ngâm một lúc lâu bên tách cà phê của mình. “Có một gã ở Beirut có thể giúp chúng ta trong vụ này. Tên hắn là Nabil Azouri”.

“Câu chuyện của hắn là thế nào?”

“Hắn là kẻ mang hai dòng máu Libăng và Palestine. Công việc làm ăn nào hắn cũng nhúng tay vào một chút. Làm phóng viên nghiệp dư cho vài hãng tin phương Tây. Sở hữu một hộp đêm. Thực hiện vài phi vụ buôn lậu vũ khí lẻ tẻ và thỉnh thoảng nhận vận chuyển thuốc lá ha-sít qua đường biển. Tất nhiên là hắn còn làm việc cho chúng ta nữa”.

“Tại sao hắn làm việc cho chúng ta?”

“Vì tiền, lẽ dĩ nhiên. Nabil mê tiền”.

“Chúng ta liên lạc với hắn bằng cách nào?”

“Chúng ta sẽ để lại một tin nhắn điện thoại tại hộp đêm của hắn ở Beirut và một vé máy bay ở chỗ người bảo vệ khách sạn Commodore. Chúng ta hiếm khi làm việc với Nabil trên địa bàn của hắn”.

“Hắn thường đi đâu?”

“Đảo Síp”, Lev trả lời. “Nabil cũng mê đảo Síp”.

Ba ngày sau, Gabriel đã sẵn sàng lên đường. Văn phòng đã sắp đặt cuộc hẹn cho anh. Larnaca là một điểm du lịch phổ biến của người Israel, nên không cần sử dụng hộ chiếu giả của nước ngoài. Tuy vậy, việc đi lại với tên thật của anh là không thể, nên Văn phòng đã làm cho anh một bộ giấy tờ tùy thân với quốc tịch Israel và một cái tên không có gì đặc biệt là Michael Neumann. Một ngày trước khi khởi hành, Văn phòng đã dành cho anh khoảng một giờ đồng hồ nghiên cứu các hồ sơ về Nabil Azouri trong một phòng đọc bí mật. Khi anh nghiên cứu xong, họ trao cho anh một phong bì chứa mười ngàn đôla Mỹ tiền mặt và chúc anh may mắn. Sáng hôm sau, đúng 7 giờ, anh đáp chuyến bay kéo dài hơn một giờ của hãng El Al cất cánh tại phi trường Ben-Gurion để đến đảo Síp. Khi đến nơi, anh thuê một chiếc xe hơi tại sân bay và lái một đoạn đường ngắn dọc theo bờ biển để đến một khu nghỉ mát mang tên khách sạn Palm Beach. Một tin nhắn gửi từ đại lộ King Saul đang đợi anh ở đó. Nabil Azouri sẽ đến vào buổi chiều. Gabriel ở trong phòng trong suốt phần còn lại của buổi sáng, và sau đó, không lâu sau khi đồng hồ báo một giờ trưa, anh xuống nhà hàng cạnh bể bơi để dùng bữa trưa. Azouri đã đặt một chỗ ở đó. Một chai sâm-banh Pháp đắt tiền, đã cạn gần phân nửa, đang yên vị trong một chiếc xô ướp đá bằng bạc.

Gã có mái tóc xoăn sẫm màu, một vài sợi đã điểm bạc, và một bộ ria rậm. Khi gã tháo cặp kính râm, Gabriel thấy xuất hiện trước mặt anh một đôi mắt to màu nâu trễ nải giống như ngái ngủ. Trên cổ tay trái của gã là một chiếc đồng hồ vàng chật cứng; còn trên cổ tay phải, những chiếc lắc vàng va vào nhau lanh canh khi gã nhấc ly sâm-banh đưa lên môi. Gã mặc một chiếc sơmi vải cotton màu kem. Cái quần lụa bóng của gã đã bị nhàu sau chuyến bay từ Beirut đến. Gã đốt một điếu thuốc lá Mỹ bằng một chiếc bật lửa vàng và lắng nghe lời đề nghị của Gabriel.

“Ein al-Hilweh? Mẹ kiếp, bộ anh khùng rồi hả?”

Gabriel đã dự đoán trước phản ứng này. Azouri coi mối quan hệ với cơ quan tình báo Israel cũng chỉ như mọi mối làm ăn khác của gã. Gã là một tay thương lái, còn Văn phòng là khách hàng. Mặc cả là một phần không thể thiếu của quá trình mua bán. Gã thương nhân Libăng chồm người về phía trước và đóng khung Gabriel trong ánh mắt buồn ngủ của mình.

“Gần đây anh có xuống khu đó không? Nó giống hệt như miền tây hoang dã, dĩ nhiên là theo kiểu Khomeini. Nó đã biến thành địa ngục từ khi các anh rút quân ra. Toàn bọn sát thủ mặc đồ đen, sáng danh đấng Allah vô cùng nhân từ. Người ngoài đừng hòng có cơ hội bén mảng vào trong. Khó lắm, Mike ạ. Hãy uống chút sâm-banh với tôi và quên nó đi”.

“Nhưng anh đâu phải người ngoài, Nabil. Anh biết tất cả mọi người, anh có thể đến bất cứ đâu. Đó là lý do chúng tôi trả công cho anh hậu hĩ như thế”.

“Chỉ là tiền 'boa' thôi, Mike, đó là tất cả những gì tôi nhận được từ Văn phòng của anh - chỉ đủ mua thuốc lá, sâm-banh và dư chút đỉnh để tiêu vào khoản em út”.

“Khoản em út của anh có vẻ cao cấp quá nhỉ, Nabil, vì tôi đã xem qua tập chi phiếu chi cho anh. Anh đã kiếm được một khoản không tồi chút nào từ mối quan hệ làm ăn với chúng tôi”.

Azouri giơ ly rượu về phía Gabriel. “Chúng ta hợp tác làm ăn rất tốt, Mike. Tôi không phủ nhận chuyện đó. Tôi rất khoái tiếp tục cộng tác với các anh. Đó là lý do anh sẽ phải tìm người khác chui vào cái ổ rắn độc Ein al-Hilweh cho anh. Nó không tốt cho máu của tôi. Quá nguy hiểm”.

Azouri ngoắc anh bồi và gọi thêm một chai sâm-banh Pháp nữa. Việc từ chối một lời đề nghị làm ăn rõ ràng không ngăn được hắn thưởng thức một bữa ăn ngon bằng hóa đơn của Văn phòng. Gabriel quẳng chiếc phong bì lên mặt bàn. Azouri nhìn nó bằng ánh mắt cân nhắc nhưng vẫn không nhúc nhích.

“Trong đó có bao nhiêu vậy Mike?”

“Hai ngàn”.

“Đơn vị tiền tệ?”

“Đôla Mỹ”.

“Vậy thỏa thuận là gì? Một nửa tạm ứng trước, một nửa khi giao hàng? Buồn cười thật. Tôi chỉ là một gã Arập ngốc nghếch nhưng nếu chỉ vì hai ngàn cộng với hai ngàn là bốn ngàn, thì tôi sẽ không liều mạng đặt chân đến Ein al-Hilweh đâu”.

“Hai ngàn này chỉ là tiền đặt cọc”.

“Và thêm bao nhiêu khi tin tức được giao?”

“Năm ngàn nữa”.

Azouri lắc đầu. “Không, mười ngàn nữa”.

“Sáu”.

Lại một cái lắc đầu. “Chín”.

“Bảy”.

“Tám”.

“Đồng ý”, Gabriel nói. “Hai ngàn trả trước, thêm tám ngàn sau khi mọi chuyện hoàn tất. Không tồi đối với một công việc chỉ làm trong một buổi chiều. Nếu anh tỏ ra biết điều, chúng tôi sẽ thanh toán cả tiền xăng cho anh ấy”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

79#
 Tác giả| Đăng lúc 31-12-2013 18:32:01 | Chỉ xem của tác giả
“Ồ, tất nhiên là các anh trả tiền xăng rồi, Mike ạ. Thù lao của tôi luôn luôn tách biệt với các khoản chi phí”. Người bồi bàn mang chai sâm-banh thứ hai lên. Khi anh ta đi khỏi, Azouri hỏi. “Vậy anh muốn biết gì nào?”

“Tôi muốn anh tìm một người”.

“Có bốn mươi lăm ngàn người tị nạn sống trong cái trại ấy, Mike ạ. Cho biết thêm chút manh mối đi”.

“Đó là một ông già mang họ al-Tamari”.

“Tên?”

“Chúng tôi không biết”.

Azouri nhấp một ngụm rượu. “Cái họ này không quá phổ biến. Không sao. Anh còn có thể cho tôi biết thêm điều gì về lão?”

“Ông ta là một người tị nạn đến từ vùng Tây Galilee”.

“Hầu hết bọn họ đều thế. Từ làng nào?”

Gabriel trả lời.

“Chi tiết gia đình?”

“Có hai con trai chết trận năm 1982”.

“Ở trong trại hả?”

Gabriel gật đầu. “Chúng là người của Fatah. Hình như vợ lão cũng thiệt mạng”.

“Hay đấy. Tiếp đi”.

“Lão có một đứa con gái. Ả lớn lên ở châu Âu. Tôi muốn biết mọi điều mà anh có thể lần ra về cô ả. Ả từng học ở đâu. Học ngành gì. Sống ở nơi nào. Ngủ với ai?”

“Tên cô ả là gì?”

“Tôi không biết”.

“Tuổi?”

“Ngoài ba mươi, chắc chắn. Nói giọng Pháp”.

“Sao anh phải tìm thông tin về cô ta?”

“Chúng tôi cho rằng ả có thể liên quan đến vụ tấn công nhà ga Lyon”.

“Cô ta còn sống không?”

Gabriel lắc đầu. Azouri nhìn ra bãi biển một lúc lâu. “Và các anh nghĩ bằng cách lần theo tiểu sử của cô ả, các anh sẽ tóm được ông trùm, tóm được bộ não đứng đằng sau vụ khủng bố đó?”

“Đại loại thế, Nabil”.

“Tôi nên chơi theo kiểu gì với lão già đây?’

“Bất cứ kiểu gì mà anh muốn”, Gabriel nói. “Miễn là mang về cho tôi thứ tôi cần”.

“Cô gái này”, gã người Libăng nói. “Trông cô ta ra sao?”

Gabriel đưa cho Azouri cuốn tạp chí mà anh mang theo từ phòng khách sạn. Azouri lật từng trang cho tới khi nhìn thấy bức phác họa mà Gabriel đã vẽ trên tàu Fidelity.

“Cô ta trông như thế đấy”, Gabriel nói. “Chính xác như thế”.

Trong suốt ba ngày anh không nghe tin tức gì của Nabil Azouri. Anh chỉ có thể đoán rằng gã người Libăng đã bỏ trốn cùng số tiền đặt cọc hoặc đã bị giết trong khi cố gắng thâm nhập vào trại tị nạn Ein al-Hilweh. Thế rồi, vào buổi sáng ngày thứ tư, chuông điện thoại trong phòng anh reo vang. Chính là Azouri, gọi từ Beirut. Hắn thông báo sẽ đến khách sạn Palm Beach vào giờ ăn trưa. Gabriel gác máy, rồi đi bộ ra bãi biển và đi dạo một đoạn dài dọc theo mép nước. Những vết bầm tím trên người anh bắt đầu mờ đi và phần lớn những cơn đau nhức đã rút lui khỏi thân thể anh. Sau cuộc đi dạo, anh trở về phòng để tắm và thay quần áo. Đến khi anh xuống nhà hàng cạnh bể bơi, Azouri đã thưởng thức ly sâm-banh thứ hai.

“Đúng là một nơi chó chết, Mike ạ. Địa ngục trần gian”.

“Tôi không trả anh mười ngàn đôla để nghe báo cáo về điều kiện sống ở trại Ein al-Hilweh”, Gabriel nói. “Đó là việc của Liên Hiệp Quốc. Anh có tìm được lão già không? Lão còn sống không?”

“Tôi đã tìm thấy lão”.

“Và?”

“Đứa con gái rời Ein al-Hilweh vào năm 1990, chưa một lần trở lại”.

“Tên ả là gì?”

“Fellah”, Azouri đáp. “Fellah al-Tamari”.

“Ả đã đi đâu?”

“Có vẻ như đó là một° đứa con gái thông minh. Ả xin được học bổng của Liên Hiệp Quốc sang học ở châu Âu. Lão già bảo con gái hãy nắm lấy cơ hội đó và đừng bao giờ trở lại Libăng”.

“Ả đã học ở đâu?” Gabriel hỏi, mặc dù anh ngờ rằng anh đã biết câu trả lời.

“Pháp”, Azouri nói. “Đầu tiên ở Paris, sau đó là đâu đó ở miền nam. Lão già cũng không biết chắc. Hình như có những khoảng thời gian dài họ không liên lạc với nhau”.

“Chắc chắn rồi”.

“Lão có vẻ không trách móc gì con gái. Lão muốn ả có được một cuộc sống tốt hơn ở châu Âu. Lão không muốn ả bị chôn vùi trong bi kịch của người Palestine, theo lời lão tâm sự với tôi”.

“Ả chẳng bao giờ quên Ein al-Hilweh”, Gabriel nhận xét một cách lơ đễnh. “Ả học ngành gì?”

“Khảo cổ”.

Gabriel nhớ lại những chiếc móng tay của ả. Ngay từ đầu anh đã có ấn tượng rằng ả phải là thợ làm đồ gốm hoặc một công việc nào đó ngoài trời. Một nhà khảo cổ tất nhiên là phù hợp với những chiếc móng tay đó.

Khảo cổ à? Anh chắc chứ?”

“Về điểm này thì lão già nói rất chắc chắn”.

“Còn gì khác nữa không?”

“Còn”. Azouri trả lời. “Hai năm trước, đứa con gái gửi cho lão một bức thư rất lạ. Ả bảo lão tiêu hủy tất cả thư từ và ảnh mà ả đã gửi về từ châu Âu trong suốt mấy năm qua. Lão già không chịu làm theo nguyện vọng của đứa con gái. Vì những lá thư và ảnh đó là tất cả những gì còn lại về ả. Vài tuần sau, một tên đầu trâu mặt ngựa xuất hiện trong phòng lão và đốt tất cả những thứ đó giùm lão”.

Bạn của Khaled, Gabriel nghĩ. Khaled đã cố xóa sạch quá khứ của cô ả.

“Anh đã khai thác thông tin từ lão già theo kiểu nào thế?”

“Anh đã có thông tin mà anh muốn. Hãy chừa lại những chi tiết vụn vặt đó cho tôi, Mike”.

“Anh có cho lão xem bức phác họa không?”

“Có. Lão khóc. Lão đã không trông thấy đứa con gái trong suốt mười lăm năm qua”.

Một tiếng đồng hồ sau, Gabriel trả phòng khách sạn và lái xe ra phi trường chờ chuyến bay đêm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

80#
 Tác giả| Đăng lúc 31-12-2013 18:38:02 | Chỉ xem của tác giả
Chương 35

TEL MEGIDDO, ISRAEL

Sáng hôm sau Gabriel đến Armageddon.

Anh để lại chiếc Skoda trong khu đậu xe khách du lịch và leo bộ lên đỉnh đồi theo con đường ngập trong ánh nắng thiêu đốt. Anh dừng lại một lát để phóng tầm mắt ra xa, bao quát cả thung lũng Jezreel. Với Gabriel, thung lũng này chỉ là nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng các nhà nghiên cứu Kinh Thánh và những người bị ám ảnh bởi những lời tiên tri về ngày tận thế thì tin rằng đó là nơi sẽ diễn ra cuộc đối đầu được mô tả trong Sách Khải Huyền giữa các thế lực thiện và ác. Cho dù định mệnh sẽ dành cho nó tai ương nào, thì Tel Megiddo cũng đã chứng kiến rất nhiều cuộc tắm máu. Nằm ngay tại giao lộ giữa Syria, Ai Cập và Mesopotamia, đây là nơi đã diễn ra hàng chục trận chiến lớn trong khoảng một thiên niên kỷ. Người Assyria, Israel cổ, Canaan, Ai Cập, Hy Lạp, La Mã và các hiệp sĩ thập tự chinh - tất cả đều đã tưới máu lên ngọn đồi này. Napoleon đánh bại quân Ottoman ở đây năm 1799, và hơn một thế kỷ sau, Tướng Allenby của quân đội Anh quốc đánh bại họ một lần nữa.

Đất trên đỉnh đồi bị cắt xẻ nát bét bởi một mê hồn trận những đường hào và căn hầm. Tel Megiddo đã phải chịu đựng những cuộc khai quật khảo cổ gián đoạn trong hơn một thế kỷ qua. Đến nay, các nhà nghiên cứu đã khám phá ra những bằng chứng cho thấy thành phố tọa lạc trên đỉnh ngọn đồi này đã bị phá hủy và được xây dựng lại khoảng hai mươi lăm lần. Ngay lúc này cũng đang có một cuộc khai quật diễn ra. Từ một trong những đường hào vẳng lên những câu tiếng Anh theo giọng Mỹ. Gabriel bước tới gần và nhìn xuống. Hai sinh viên đại học người Mỹ, một nam một nữ, đang lom khom chăm chú quan sát một vật gì đó chìm trong đất. Hình như là những mẩu xương, Gabriel thầm đoán.

“Xin chào. Tôi muốn tìm Giáo sư Lavon”.

“Sáng nay Giáo sư làm việc ở khu K”. Cô gái trả lời anh.

“Tôi chưa hiểu”.

“Các đường hào ở đây tạo thành một mạng lưới. Mỗi ô trong mạng lưới đó được ký hiệu bằng một mẫu tự. Bằng cách đó chúng tôi có thể nhanh chóng xác định vị trí của mọi hiện vật tìm được. Anh đang đứng cạnh khu F. Anh thấy tấm biển chứ? Giáo sư Lavon đang làm việc ở khu K”.

Gabriel tìm đường sang căn hầm có tấm biển đề chữ K và nhìn xuống. Dưới đáy hầm, sâu hai mét so với mặt đất, có một người nhỏ thó đội chiếc mũ rơm rộng vành đang gần như nằm bò ra đất. Anh ta dùng một chiếc cuốc chim nhỏ cạo trên lớp đất cứng và có vẻ đang dồn hết tâm trí vào công việc của mình.

“Tìm thấy gì thú vị không, Eli?”

Chiếc cuốc chim dừng lại. Người ở dưới hố ngoảnh đầu và ngước nhìn lên.

“Chỉ vài mẩu đồ gốm vỡ”, anh đáp. “Còn anh thế nào?”

Gabriel thò tay xuống hầm. Eli Lavon nắm lấy tay Gabriel và leo lên.

Họ ngồi dưới bóng mát của một tấm vải dầu màu xanh dương và uống nước khoáng bên một cái bàn xếp. Gabriel, mắt nhìn ra thung lũng phía dưới, hỏi Lavon rằng anh đang làm gì ở Tel Megiddo.

“Có một trường phái phổ biến trong ngành khảo cổ học ngày nay chúng tôi gọi nó là trường phái lý giải lại Kinh Thánh. Những người theo trường phái này tin rằng Vua Solomon, cùng với những câu chuyện xung quanh ông ta, chỉ là huyền thoại, một kiểu vua Arthur của người Do Thái. Chúng tôi đang cố chứng minh là họ sai”.

“Vậy ông ấy có thật không?”

“Tất nhiên là có rồi”, Lavon đáp, “và ông đã cho xây một thành phố ngay tại đây, ở Megiddo”.

Lavon cởi chiếc mũ mềm ra và dùng nó phủi lớp bụi màu nâu xám đang bám trên quần kaki của mình. Như thường lệ, hình như anh đang mặc cùng một lúc tất cả trang phục mà anh sở hữu - Gabriel đếm được ba chiếc áo sơmi, với một chiếc khăn tay vải cotton màu đỏ buộc quanh cổ. Mái tóc muối tiêu rối bù và thưa của anh bay phất phơ trong một cơn gió nhẹ. Anh vén món tóc lơ thơ ra khỏi trán và nhìn Gabriel bằng đôi mắt nâu nhanh nhẹn và tinh anh.

“Anh vội đến làm việc ở một nơi nóng như đổ lửa thế này có hơi sớm quá không?”, Gabriel hỏi.

Lần trước Gabriel gặp Lavon lúc đang nằm trên giường bệnh ở° Trung tâm Y tế Hadassah.

“Tôi chỉ là nhân viên tình nguyện. Tôi làm việc vài tiếng đồng hồ lúc sáng sớm. Bác sĩ của tôi bảo đây là một phương pháp trị liệu tốt”. Lavon nhấp một ngụm nước khoáng. “Vả lại, tôi thấy nơi đây đã cho tôi một bài học giá trị về tính khiêm nhường”.

“Bài học gì vậy?”

“Người ta đến rồi đi khỏi nơi này, Gabriel ạ. Cách đây rất lâu, tổ tiên của chúng ta đã cai trị nó trong một thời gian ngắn. Bây giờ chúng ta lại cai trị nó. Nhưng rồi một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ ra đi. Câu hỏi duy nhất đặt ra là lần này chúng ta sẽ ở đây trong bao lâu, và chúng ta sẽ để lại cái gì cho những người giống như tôi khai quật trong tương lai? Tôi hy vọng không chỉ là những phế tích của một Hàng rào ngăn cách”.

“Tôi chưa sẵn sàng về vườn đâu, Eli”.

“Tôi cũng đoán thế. Anh là một gã bận rộn. Tôi có đọc về anh trên báo. Đó không phải là chuyện hay trong nghề của anh - chuyện được lên báo ấy”.

“Đó cũng là nghề của anh nữa”.

“Đã từng”, anh nói, “cách đây lâu lắm rồi”.

Vào tháng Chín năm 1972 khi Shamron tuyển mộ làm thành viên chiến dịch Cơn thịnh nộ của Chúa, anh đang là một nhà khảo cổ trẻ tuổi đầy triển vọng . Và Lavon trở thành một ayin, nhân viên theo dõi. Anh đã lần theo các thành viên của tổ chức khủng bố Tháng Chín Đen và nghiên cứu mọi thói quen của chúng. Xét về mọi mặt, chính công việc của anh mới là công việc nguy hiểm nhất, bởi anh phải lộ diện trước bọn khủng bố trong nhiều ngày liền mà không có sự hỗ trợ nào. Công việc đó đã để lại cho anh chứng rối loạn thần kinh và những căn bệnh đường ruột mãn tính.

“Anh đã biết những gì về vụ này hả Eli?”

“Tôi nghe đồn anh đã về nước, và có dính líu gì đó với vụ đánh bom ở Rome. Rồi một đêm nọ Shamron đến nhà tôi và kể với tôi rằng anh đang truy đuổi con trai của Sabri. Chuyện đó có thật không? Có phải thằng nhóc Khaled là thủ phạm vụ Rome?”

“Hắn không còn là thằng nhóc nữa. Hắn đã làm vụ Rome, và hắn đã làm vụ ga Lyon. Thêm cả hai vụ Buenos Aires lẫn Istanbul trước đó”.

“Điều đó chẳng làm tôi ngạc nhiên. Máu khủng bố vẫn chảy trong huyết quản của Khaled. Hắn uống nó cùng với sữa mẹ”. Lavon lắc đầu. “Anh biết không, nếu tôi là người trông chừng anh ở Pháp, như ngày xưa, thì vụ rắc rối này đã chẳng xảy ra”.

“Có lẽ vậy, Eli”.

Những kỹ năng trên đường phố của Lavon đã trở thành huyền thoại. Shamron luôn nói rằng Eli Lavon có thể biến mất ngay khi đang bắt tay người khác. Mỗi năm một lần, anh đến Học Viện để truyền dạy những bí quyết nhà nghề của mình cho các thế hệ sau. Thực tế là tất cả những nhân viên theo dõi ở Mác-xây có thể đều đã từng ngồi dưới chân Lavon để nghe giảng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách