Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Cách Mạng - Xuất Bản] Đất Rừng Phương Nam | Đoàn Giỏi (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
21#
 Tác giả| Đăng lúc 3-1-2014 21:23:43 | Chỉ xem của tác giả
Thằng Cò - Tôi còn nhớ tên nó trong lần gặp trước, cầm tay tôi kéo lại gần nó. Nó rủ rỉ nói vào tai tôi:

- Mày ăn gì chưa.

- Ăn rồi - Tôi đáp.

- Có rùa vàng ngon lắm! Còn mấy con dưới thuyền. Chốc nữa nướng cho mày ăn.

Vừa lúc đó, con chó bỗng chồm lên sủa oang oang. Trong tiếng chó sủa dữ dội bất thình lình, tôi nghe có tiếng con vật gì kêu "ché... ét... ché... ét " ở ngoài bóng tối.

- A ha, Võ Tòng? Cả tháng nay không gặp!

Một người đàn ông búng đầu ngón tay canh cách vào cổ chai rượu, lắc lắc đôi vai, khề khà hát:

“Võ Tòng mà đả hổ

Tại Kiến Dương Cang

Gặp anh thời giữa đàng… "

Con chó nhe nanh, lông gáy dựng lên, hai chân trước chồm chồm ra bóng tối sủa dữ dội.

- Luốc? Yên nào?

Ông cụ già quát một tiếng. Con chó săn tiu nghỉu lùi lại ngoan ngoãn nằm xuống bên chân chủ.

Tôi nắm chặt tay thằng Cò, hãi quá. Một người đàn ông cổ lộ hầu, đen như cột nhà cháy, cởi trần, cao cao lêu nghêu đang hiện ra trong ánh lửa. Hai hố mắt ông ta sâu hoắm, và từ trong đáy hố sâu thẳm đó, một cặp tròng mắt trắng dã, long qua long lại, sắc như dao. Mái tóc hung hung như bờm ngựa phủ dài xuống gáy.

bộ ngực chắc nịch của ông ta ướt đẫm mồ hôi. Dưới lớp mồ hôi bóng như mỡ đó, có hình một con rồng cuộn khúc xanh lè thích chàm bằng những nét tinh vi, phập phồng theo hơi thở của ông ta. Con rồng xanh vươn vây ôm chặt một quả tim, giữa có những chữ gì lấp loáng mồ hôi trông không rõ. Chỗ gò má bên phải, năm cáí sẹo dài sả xuống từ thái dương vắt đến cổ, như đầu móng cọp cào. Một con gì giống như khỉ, hai tay dài nguều ngào, sắc lông đen tuyền, chỉ trừ chỗ hai gò má là có mọc hai chòm lông trắng, đang ngồi vắt vẻo trên vai con người kinh dị ấy.

- Lâu nay có làm dược con thịt nào khá không, ông chúa sơn lâm? - Một người quay mặt ra, hỏi.

Người đàn ông mới đến thở phào một tiếng, thả con vật xuống đất, tháo cánh nỏ đeo bên lưng ra, ngồi vào bên đống lửa nói trống không:

- Tàm tạm vài con heo rừng. Hơn tháng nay còn phơi cái da beo đóng mốc ở lều. Tây đánh gần tới, thiên hạ chạy tứ tán, bán cho ai?

- Làm một hớp rượu đón gió đi, chú! - Ông cụ già bán rắn nghếch râu lên mời.

- Không bán được da thì ta phơi thịt nhậu. Lo gì.

- Bảo Tiểu đồng hầu rượu xem? Cho nó hầu rượu đi, Võ Tòng!

Võ Tòng búng vào miệng bát một cái, tức thời con vật đưa hai tay dài nguều ngào ra bưng cái bát nâng lên ngang mặt lắc lư đi đến chìa ra trước mặt ông cụ già ông cụ già cầm chai róc thêm rượu vào đầy bát và hất hàm về phía Võ Tòng.

Tôi hỏi thằng Cò:

- Con gì lạ vậy?

- Con vượn bạc má. Khôn lắm! Nó tên là Tiểu Đồng.

Thằng Cò cứ ngó chăm chăm vào con vật, coi bộ thích lắm. Con vượn bạc má đứng thẳng hai chân sau lên như người. Hai tay nó bưng bát rượu đi thẳng đến chỗ Võ Tòng, đưa lên mời chủ. Tiểu Đồng nhe răng kêu "ché... ét, ché...ét", rồi bắt đầu đi vòng quanh đống lửa mời rượu từng người. Con chó săn gừ từ mấy tiếng, vì sợ chủ nên phải nằm yên chứ coi bộ như nó chỉ chực chạy ra cắn một miếng vào đùi con vượn thì mới hả. Đến chỗ hai người đàn bà mặc quần áo đen, Tiểu Đồng nghiêng dầu cúi xuống chào, làm cho những người đàn ông thích chí cười rộ lên. Hai người đàn bà lắc đầu quầy quậy, xua tay từ chối, nhưng con vượn bạc má không chịu đi, cứ đứng giậm chân kêu "Ché… ét, ché...ét". Cho đến khi mỗi bà phải cầm bát rượu lên nhấp môi một ít, Tiểu Đồng mới chịu bưng bát đi mời người khác.

- Chú định đi đâu mà thả ngược lên vùng này vậy? - Ông cụ già bán rắn hỏi Võ Tòng.

Quần áo rách hết rồi. Nghe Tây sắp đến, đi đón kiếm một bộ ka-ki mặc chơi - Võ Tòng đáp chậm rãi.

Một người đàn ông vỗ tay đánh bốp:

- Này? Lấy dược súng về bán cho anh em đi săn kiếm thịt ăn với nhé?

Võ Tòng nhếch môi cười. Những vết sẹo ở gò má bên phải nhăn nhúm lại, thấy rất dễ sợ.

- Súng để bắn giặc chứ có súng đâu thừa mà đi săn!

- Nhất định là tôi sẽ kiếm được. Chỉ lấy quần áo thôi. Còn súng thì phải để cho anh em tự vệ chứ.

Chợt thấy tôi gật đầu tỏ ý đồng tình, Võ tòng dừng lại chỉ vào tôi:

- Chú bé này, xem không phải là người cánh ta?

Ông cụ già bán rắn gật gù, thò tay cầm một cái que khô cời vào đống lửa:

- Nhưng nó sẽ là người cánh ta. Chốc nữa, tôi sẽ đưa nó theo tôi... Bà nhà tôi hẳn là phải mừng lắm?

Một bầy chim đêm bay vút qua trên đầu chúng tôi.

Tiếng đập cánh rào rào mất hút trong vòm trời nhấp nháy những vì sao xanh biếc.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
 Tác giả| Đăng lúc 4-1-2014 09:47:36 | Chỉ xem của tác giả
Chương 7

Gia đình bố nuôi tôi

- Tới nhà rồi. Dậy lên nhà, An ơi!

Tôi nghe tiếng thằng Cò gọi, giật mình mở mắt ra. Bàn tay nó hãy còn đập đập mấy cái lên vai tôi, khiến tôi tỉnh hẳn người. Tôi giụi mắt mấy cái, bàng hoàng một lúc mới nhớ ra là mình đã ngủ dưới thuyền từ đêm qua cho tới bây giờ.

Thằng Cò đã bò ra trước mũi loay hoay cầm sợi thừng buộc thuyền vào gốc cây mọc dựa bờ.

Tôi đưa mắt ngó lên. Một mái lều nhỏ, tiều tụy, nép dưới bóng cây tràm vỏ trắng phản chiếu ánh bình minh như tô phấn. Chung quanh nhà mọc đầy những cây bình bát đại, lá xanh um. Sau những bình cây bát đại là một khoảng rộng trống, và nhìn thẳng vào trong xa, chỉ thấy toàn lau sậy mịt mùng. Trên khoảng sân rộng trước nhà, một vài con buồm đất bay đây đó. Bên góc sân, một dọc da trăn và da rắn vắt trên cây sào phơi . Luồng gió ban mai thổi nhẹ qua, đong đưa những tấm da khô trông như một bầy rắn quấn vào cây sào đang cựa quậy.

Con Luốc nhảy phốc lên sân, sủa mấy tiếng mừng rỡ. Một bà già cao lớn, hơi gầy, tóc bới cao hình bánh lái, mặc chiếc áo bà ba vải đen kiểu xưa, từ trong lều bước ra, chạy đến cúi xuống vuốt ve con chó. Khi thấy trong thuyền có thằng bé lạ, bà bèn buông con chó, ngước lên hỏi:

- Chú em nào đấy?

Thằng Cò đưa tay cho tôi nắm để bước lên bờ, vừa cười vừa nói:

- Anh em với con đấy, má à..

- Con nuôi của tôi đấy? Bà nó dắt con lên nhà đi. - Ông lão gác mái chèo lên mui, đứng sau lái thuyền nói vọng lên.

Bà lão mỉm cười nhìn tôi. Tôi không biết nói gì, chỉ ngượng nghịu cúi đầu chào.

°°°°°
Ở vùng Phong Mỹ, ai cũng khen anh Hai là một thanh niên hiền lành, chịu khó. Anh mồ côi cha mẹ từ lúc mườl tuổi, phải ở đợ cố công cho tên địa chủ Khá . Mãi đến năm gần ba mươi tuổi anh vẫn chưa lấy được vợ. Người tá điền ấy giỏi trai, khỏe đến nỗi có thể dùng hai tay nắm hai sừng trâu ghì xuống đất, con trâu vùng vẫy thế nào, cũng không cất đầu lên được.

- Bao giờ mày làm cho tao đúng hai mươi năm, trừ hết số nợ cha mẹ mày còn thiếu tao ngày xua, tao sẽ cho mày một số tiền cưới vợ. Tao sẽ cho vợ chồng mày một vuông đất làm nền nhà, và cho mướn một ít ruộng, làm ăn riêng với nhau. - Lâu lâu, tên địa chủ già nổi tiếng keo kiệt nhất vùng lại bảo với người đầy tớ trung thành của lão một lần như vậy.

Mỗi lần nghe như vậy, anh Hai lại cố sức làm lụng ngày đêm cho vừa lòng chủ, bao nhiêu nỗi vất vả trong anh thảy đều tan như mây mù dưới ánh mặt trời.

Đến năm anh Hai ba mươi tuổi, không thấy tên địa chủ nói gì, anh bèn nhắc lại lời hứa đó.

- Vậy sao? - Tên địa chủ kêu lên và cười lớn. - Vậy mà tao tưởng mày không tính chuyện lấy vợ, ra ở riêng nữa chứ! Mà đã có con nào bằng lòng lấy mày chưa?

- Bẩm ông chủ, có rồi ạ - anh Hai mừng rỡ đáp.

- Thế con đó có đui què, mẻ sứt gì không?

- Bẩm ông chủ, không ạ?

Nó cấy gặt, làm lụng được chứ?

- Bẩm ông chủ, được ạ?

Tên địa chủ Khá ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

- Thôi được. Nhưng mày phải. dắt nó về cho tao xem người ngợm ra sao đã. Không lại vớ phải thứ cá lọt giỏ, gà lọt bội (Thứ không ra gì), quặt quẹo ốm đau, về phải nguôi báo cô thì khổ cho mày?

Anh Hai bơi xuồng suốt đêm, đến nhà người yêu báo tin vui đó. Hai anh chị quen biết nhau đã mấy nam nay. Chị Hai cũng là con nhà cố nông, mồ côi, được người dì mang về nuôi từ bé.

Khi tên địa chủ già trông thấy người con gái xứ Cao Lãnh khỏe mạnh, có hai hàng mi phớt cong trên cặp mắt to đen, có đôi vai nở rộng, đang nghiêng cúi chào hắn, hắn đưa tay lên giụi mắt mấy cái. Hắn ngồi sững sờ hồi lâu không nói gì cả.

Hai anh chị lo quá, lẳng lặng bước ra đứng ngoài thềm, không biết mình đã chót sơ ý, sơ xuất diều gì để ông chủ phải phật lòng chăng? Hồi lâu, tên địa chủ mới đằng hắng một tiếng, gọi anh Hai vào, cho ngồi xuống một bên góc phản, thong thả bảo:

- Thôi được! Cứ hảo nó ở lại đây. Mọi việc sẽ lo liệu...

- Tao, tao sẽ cho người đến bàn với dì nó... Rồi đâu khắc vào đấy thôi…

Anh Hai mừng cuống lên, chắp hai tay vái dài toan lui ra. Nhưng ông chủ anh đã vẫy tay, ra hiệu cho anh ngồi lại đó.

- Việc cưới xin của mày thì... hãy thong thả. Rồi tao sẽ liệu cho...

- Vô cùng đội ơn ông chủ.

- Bây giờ mày vào ngay trong chòi ruộng, coi giữ bầy trâu hai mươi con trong đó thay cho thằng Bé. Bảo thằng Bé về lo việc ngoài này, nghe chưa?

Anh Hai vào coi giữ bầy trâu đã hơn nửa tháng. Chiều chiều anh ngồi trên lưng trâu ngong hướng nhà chủ, nóng ruột như lửa đốt. Người đầy tớ hầu hạ chủ suốt hai mươi năm không lạ gì tính háo sắc của ông chủ nổi tiếng ấy Một tay lão đã vùi dập bao nhiêu đời thiếu nữ. Có nhiều người con gái tá điền trẻ, đẹp, bước vào nhà lão rồi không trở về nhà cha mẹ nữa, mà nằm vĩnh viễn dưới nấm mộ giữa đồng...

Một đêm, giữa lúc khuya, anh nghe trâu khua sừng lộp cộp ngỡ trộm vào dắt trâu, anh chụp con dao rựa nhảy ra.

- Anh Hai ơi? Nguy rồi, anh Hai ơi! - Thằng Bé kêu lên trong tối.

Tay anh Hai cầm con dao run bần bật. Linh tính báo cho anh biết đã có điều nguy biến xảy ra cho ngươi yêu anh rồi...

Ngay lúc anh Hai vừa ra khỏi nhà đi vào chòi ruộng, tên dịa chủ Khá gọi chị Hai vào, ngon ngọt dỗ dành, bảo chị nếu ưng thuận thì hắn sẽ cưới chị làm vợ thứ ba. Vợ cả hắn còn nằm liệt ở nhà thương tỉnh từ năm này qua năm khác. Vợ thứ hắn thì đang trông coi một đồn điền xa... "Mày chỉ gật đầu một cái tức khắc lên bà". Chị Hai sụp lạy hắn, xin tha cho chị về. Hắn hết dỗ dành rồi dọa nạt. Hắn đã dùng gậy, dùng roi mây đánh chị thâm tím khắp mình mẩy, và lôi nhốt chị trong nhà kho bờ trống với một vò nước lã. Rồi hắn lại mò xuống dụ dỗ, đánh đập, nhưng hơn mười ngày vẫn không xoay chuyển được lòng chị. Chị Hai cứ nằm khóc, và hết khóc lại ngóng ra khe vách, trông chờ người yêu một cách tuyệt vọng. Tên địa chủ cấm tiệt bọn tôi trai tớ gái trong nhà không được hé môi với ai. Thằng Bé ngày nào cũng lén lún đút vào cửa cho chị một nắm cơm.

Ngoài thằng Bé ra, bây giờ chỉ còn có con thằn lằn chắt lưỡi trên vách và con cóc nghiến răng ngoài thềm thương cho cảnh ngộ của chị thôi?

Đã khuya mà ai còn chèo thuyền. ngoài sông hát hò làm chi cho lòng chị Hai thêm đau như muối xát:

- Một tiếng nhục anh để đó, hai tiếng nhục anh để đó, ba tiếng nhục anh ra đi...

Chị Hai ôm mặt khóc nấc lên. Chỉ còn có lấy cái chết để bảo toàn trinh tiết, đền đáp lại mối tình của người yêu thôi. Chi thò tay ra lỗ vách thủng, với lấy sợi thừng ải máng bên ngoài.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
 Tác giả| Đăng lúc 4-1-2014 09:50:07 | Chỉ xem của tác giả
Thằng Bé ngủ bên hè vựa lúa gần đó. Tiếng khóc của người thiếu nữ xấu số đã khiến nó nhiều đêm không chợp mắt. NÓ thường trở dậy đứng bên ngoài vách nhà kho nghe chị khóc, và lòng nặng trĩu xót thương một cách bất lực, nó chỉ biết lặng lẽ cúi đầu, thất thểu dưới ánh trăng đi về, nó không sao ngủ được... Tình cờ thằng Bé đã bắt gặp bàn tay run rẩy thò ra níu sợi dây thừng. NÓ chạy đến giật phăng sợi thừng ném ra xa, và trong giây phút đứng trước nỗi đau khổ tột cùng của những người nghèo cũng bị áp bục như nhau, nó không còn nghĩ đến cái gậy quất đến quằn người và những trận đòn khủng khiếp của lên dịa chủ, nó nhắm mắt chạy băng dộng ra chòi ruộng của anh Hai...

Khi anh Hai và thằng Bé về đến nhà kho thì trăng đã lu Anh sờ soạng vỗ vỗ vào vách gọi mấy tiếng. Không bên trong động cựa gì. Chiếc khóa to tướng nghiến kẽo kẹt trong hai bàn tay nóng rục lửa của người chồng chưa cưới. Anh không bẻ nổi khóa.

- Cạy mẹ cửa đi, anh! - Thằng bé trao cho anh con dao mà anh vừa ném bên vách.

Đêm lặng như tờ. Tiếng dao nạy cửa nghiến vào Ổ khóa nghe rợn người. Mấy con chó chạy ra, gặp người nhà chúng không sủa, nhưng con nào con nấy cứ nhảy chồm chồm, kêu ư ử ngạc nhiên trước một việc kỳ lạ mà chúng chưa từng chứng kiến trong ngôi nhà này. Chiếc khóa bật ra. Anh Hai đạp cửa lao vào. Anh vấp phải một thân người mềm nhũn nằm trên nền gạch. Anh run run cúi xuống bế thốc lên tay. Chị Hai hãy còn thoi thóp. Cơn xúc động dữ dội đã làm chị ngất đi.

- Chết rồi, anh Hai ơi ông chủ xuống kìa? - Thằng Bé đứng bên ngoài kêu lên.

Khi anh Hai bế chị Hai ra sân thì tên địa chủ Khá đã cầm gậy lững thường bước tới.

- Bỏ nó xuống! Kìa! Tao bảo mày bỏ nó xuống!

- Bẩm ông chủ...

- Câm mồm ngay!

Xin ông thuổng vợ chồng chúng tôi...

- Vợ mày à?

- Bẩm ông chủ...

- Có bỏ xuống không?

- Ông chủ nỡ nào...

- Nỡ nào! Nỡ nào! Nỡ nào! - Tên địa chủ nén giọng rít lên, và hắn phang gậy xối xả, đập vào đầu vào mặt anh, đập vào cả cái thân hình mềm nhũn trên tay tên đầy tớ dám cưỡng lệnh hắn.

Anh Hai quay lưng ra hứng đòn cho người vợ chưa cưới đang thiêm thiếp trong tay mình. Sức người dù khoẻ đến đâu cũng có hạn thôi. Anh lảo đảo ngã khuỵu xuống.

Nhưng anh vẫn còn đủ sức đặt chị Hai nằm đấy, cầm con dao quay lại.

Tên địa chủ Khá hét ầm lên, ba chân bốn cẳng chạy lên nhà. Anh Hai không đuổi theo. Anh ném con dao vào lưng nó và quay lại cõng chị Hai chạy đi.

Trống mõ chung quanh nổi lên như nhái kêu. Anh Hai chưa ra khỏi nhà hơn trăm thước thì bị bắt.

Con dao không kịp cắm vào lưng tên địa chủ dâm ác. NÓ chỉ mới cứa đứt một lằn dài hơn gang tay... Và anh Hai bị dóng'trăn( một loại gông) chịu một trận đòn thù đến chết đi sống lại không biết mấy lần, trước khi ra tòa đền tội, cướp đoạt và cố ý sát thương nhà chủ mất hai mươi năm tù khổ sai.

Ở tù được năm năm, anh Hai trốn ra, dắt chị Hai xuống một chiếc xuống để mặc nước cuốn đi.

Đôi vợ chồng cải tên đổi họ, nổi trôi từ vùng này sang vùng khác. Từ những nghề hạ bạc như đóng đáy, câu cá sấu trên sông Cửu Long mênh mông, đến trèo cau, trèo dừa ở Bến Tre, nơi người đi có thể bước suốt ngày dưới những vườn dừa tầu lá ken nhau, trên đầu không lọt xuống một bóng nắng, đến nghề đi làm ruộng thuê cho những tên địa chủ ác bá giầu nứt đố đổ vách của tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu... hai người đều làm tất. Đúng trên các cánh đồng, nhìn bốn mặt chân trời, chỉ thấy lúa vàng gợn lên mênh mông như biển, mà hai vợ chồng không đủ nồi gạo nấu cháo trong lều. Ban đêm phải bò ra những đống lúa cao như núi do tay mình làm ra, lấy trộm một ít thóc đem về, rồi lấy cán dao cà lúa cho ra gạo ,không dám giã đã đành, thậm chí đến đèn cũng không dám đốt sợ bọn cập rằng (bọn canh gác) thấy chỗ nào có ánh sáng là sẽ mò tới...

Cho đến khi chị Hai sinh thằng Cò thì tai họa lại bay đến trong gia đình đôi vợ chồng nghèo. Những tên tề địa chủ thấy chị Hai xinh đẹp, liền lập mưu phao vu cho chồng chị làm cộng sản để định bắt anh đầy đi chết rục xương ở Côn Đảo, hòng chiếm đoạt ngươi đàn bà lam lũ nhưng có nhan sắc và duyên dáng kia. May thay anh Hai đã phát hiện kịp, vội vàng thủ tiêu hết tang vật chúng định gán ghép, rồi bồng con dắt vợ xuống thuyền đang đêm trốn đi...

- Vào rừng ở thôi? - Chị Hai lau nước mắt, quả quyết bảo chồng như vậy.

Một chiếc thuyền nát, một con dao rựa, một con chó gầy gò ngồi bên mẻ lửa hun khói đuổi muỗi, đuổi bọ mắt trước mũi thuyền, người nông dân cùng đường này chèo đưa vợ con và mấy giạ lúa ăn, lúa giống cuối cùng, mỗi ngày một đi sâu vào rừng rậm.

Hai vợ chồng che một túp lều bên cây tràm độc chiếc, để lấy nơi làm phương hướng tìm về. Và họ ra sức khai phá... Họ làm đủ các thứ nghề để sinh sống qua ngày. từ giữa chỗ ướt mù sương lam chướng khí, chung quanh chỉ còn nghe tiếng vượn hú, tiếng beo gầm, dù phải chịu đựng không biết bao gian nan cơ cực, nhưng cuộc sống của họ thảnh thơi dễ chịu hơn lúc còn chung đụng với những con người đã cầm vận mệnh họ trong tay trước kia.

Như thế đó? Sức khỏe của một ngườl đàn ông thật thà chỉ biết nai lưng ra làm lụng, và sắc đẹp của một người đàn bà nghèo chung trinh là mối bất hạnh đã dắt tai họa vào cái gia dình cố nông này. Chồng thì bị bóc lột đến cùng kiệt sức lực, vợ thì luôn bị đe dọa cưỡng bức. Còn bọn ăn trắng mặc trơn, không làm gì động đến móng tay, thì vẫn mâm cao cỗ đầy, lên xe xuống ngựa, muốn cho ai sống thì sống, muốn bắt ai chết thì chết? Sao trời nỡ bất công làm vậy?

Đó là câu chuyện về nguồn gốc gia đình của ông Hai, bà Hai - gia đình bố mẹ nuôi tôi - mà tôi được biết qua nhiều lần kể của bà mỗi lúc bà kể một quãng, có khi không ra đầu ra đũa gì, có khi đoạn trước nói thành đoạn sau. Cả không gian và thời gian lẫn lộn đã chìm vào lớp sương mù ký ức trong những năm cơ cực đầu tắt mặt tối, lần lần được bà khơi dậy, mỗi lúc lại hiện lên rõ nét trước mắt tôi.

- Cuộc sống chung quanh tôi giờ đây đã khác xa với những bài học ở nhà trường đế quốc trước kia biết bao. Con ở đây với tía? Tía má nghèo lắm, chẳng có gì đâu. Nhưng con cứ tin rằng cuộc sống của con không đến nỗi như cuộc đời đau khổ của tía má ngày xưa! - Má nuôi tôi một hôm đã bùi ngùi cầm tay tôi nói như vậy.

Tôi đẩy má nuôi tôi ra, nước mắt chảy giàn giụa mà không biết rằng mình đang khóc. Tôi bảo bà:

- Đánh chết cha thằng Tây và bọn chủ điền kia thì hết khổ thôi. Bây giờ không phải như ngày xưa nữa... Bây giờ mình đã độc lập rồi, má không biết à. Má đừng ngồi đây gọi trời. Trời làm gì có mà gọi.

Má nuôi tôi ngả người ra sau, nhìn tôi bằng cặp mắt vừa ngạc nhiên vừa có phần lo sợ cho tôi. Nhưng rồi bà cũng mỉm cười, gật gật đầu. Không biết bà có hiểu ý tôi muốn nói gì không? Mà bà làm sao hiểu được, vì chính tôi cũng chưa nói ra được một cách rành rọt những ý nghĩ sôi sục vừa mới thành hình trong đầu óc thơ bé của tôi kia?

Má nuôi tôi đưa tay lau một giọt nước mắt còn đọng trên má tôi. Lần dầu tiên, tôi nhìn thấy giọt lệ mình long lanh trong suốt, lăn rơi trong bàn tay nhăn nheo của một bà lão nghèo đã cúi đầu gánh chịu không biết bao nhiêu nỗi bất hạnh gần suốt cả đời người. Có phải giọt nước mắt nào cũng là biểu hiện của ủy mị và hèn yếu đâu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

24#
 Tác giả| Đăng lúc 4-1-2014 10:18:59 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8

Đi câu rắn

Má nuôi tôi là một người thuộc khá nhiều chuyện cổ tích và biết hầu hết mọi cung cách làm ăn của những người nông dân nghèo ở khắp mọi vùng Nam Bộ. Có điều là trong tất cả những mẩu chuyện bà kể, chuyện nào cũng pha đượm ít nhiều tính chất thần bí, và bà tin tưởng một cách ngây thơ ở "mệnh trời". Dù vậy tôi cũng thích nghe, thích gợi cho má nuôi tôi kể để tôi nghe say mê...

Thằng Cò còn giống mẹ ở chỗ hay mê tín dị đoan. Nó là một đứa chúa sợ ma! Bao giờ nghe kể chuyện trong lúc ban đêm, mặc dù đã lớn tuồng như vậy mà lúc nào nó cũng nhảy vào lòng má, ngồi rụt lại như một đứa trẻ con.

Tía nuôi tôi hiền lành, ít nói. ông thường ngồi lặng lẽ đánh những sợi dây gai hoặc giũa lưỡi câu, miệng không rời cái tẩu thuốc lá hình thù kỳ dị làm bằng một gốc ớt hiểm rừng.

Má nuôi tôi kể cho chúng tôi nghe đủ thứ chuyện. Từ những chuyện "Cá bống hai hang, cá trê hai ngạnh, tôm càng hai râu "rất ngây ngô, trẻ con, sang chuyện săn nai, săn khỉ qua rừng, qua chuyện cuộc đời chú Võ Tòng - con người kỳ dị mà tôi đã được gặp một đêm tối ở bờ sông - đến chuyện ma cá sấu, ma cọp, ma nam... mà người nghe yếu bóng vía, dù là người lớn đi nữa, cũng không dám bướt ra xa nhà đi đái. Dáng như chuyện nào thằng Cò cũng đã nghe mẹ kể rồi. NÓ chẳng chú ý mấy, chỉ hong hóng, chực nghe bà quên mất một đoạn nào đó, thì lập tức chen vào bổ sung ngay, rồi lại nheo mắt nhìn tôi như muốn nói: 'thấy chưa, má tao còn không nhớ bằng tao' vì Mày ở chợ vô đây, rồi còn phải học tao nhiều!" Cái thằng đen trũi \, cổ dài ngoằng như cổ cò ma, nhiều lúc tỏ ra "ta đây" một cách khinh khỉnh, dễ ghét. Ngoài mặt tôi từng tỏ ra không phục, nhưng trong bụng tôi vẫn chịu là nó khôn ranh, hiểu biết hơn tôi nhiều. NÓ dạy tôi cách hiểu các thứ bẫy, đặc tính của nhiều con thú, và nó đã dắt tôi đi gần thuộc hết các lối ngoắt ngéo trong rừng.

- Tía ơi? Để con dắt thằng An đi câu rắn một bữa nghe tía!

Một buổi chiều, đột nhiên thằng Cò hứng lên, đề nghị với bố như vậy. Tía nuôi tôi bị con cá ngát đâm vào bắp chân, hôm nay chân còn sưng tướng, chưa đi được. Ông hỏi:

- Đi không có tao, thằng An thì chưa biết gì, liệu một mình mày có làm nên trò trống gì không đấy? Thôi, để lúc khác con ạ!

Má nuôi tôi liền can thiệp ngay:

- Nó làm được mà? Ông thì lúc nào cũng chê ỏng chê eo thằng bé. Để không có ông, coi nó có làm được không?

Thằng Cò nhướng mắt nhìn tôi. Thế là hai đứa tôi bắt tay ngay vào việc chuẩn bị cho buổi câu đêm.

Chúng tôi dắt con Luốc đi dọc theo mé nước, rình đập những con cá thòi lòi biển. Những con cá thòi lòi to bằng ngón chân cái, cặp mắt ốc nhồi mọc trên dầu giống như hai hột mồng tơi, hễ nghe bước chân chúng tôi đến gần là y như chúng giương cái kỳ ngũ sắc trên lưng thành một cánh buồm, phóng ngay trên mặt nước. Giống cá gì mà tinh như qủy Bay trên mặt nước như cá thia lia, lặn cũng giỏi, bơi cũng giỏi còn nhảy trên bờ thì thật không thua gì một con ếch. Vậy mà rốt cục hai đứa cũng đập được gần mười con. Riêng phần con Luốc, nó cũng rình chộp được năm sáu con. Vậy là tàm tạm đi khoản mồi câu rồi.

Tía nuôi tôi đi cà nhắc đến ngồi trên một gốc cây cắt ngang giống như một cái đòn sù sì đặt bên cạnh bếp lửa , xem chúng tôi chuẩn bị mồi câu. Thằng Cò muốn chúng minh lời khen của má, hay cố 'biểu diễn" cho tôi phục nó thì không biết, mà nó làm coi thạo lắm. Nó dùng hai ngón tay banh họng con cá, nhét vào họng mỗi con một quả ớt hiểm chín.

- Ê nướng đi mậy, An? - Nó bảo tôi.

- Làm sao nướng đây?

- Lấy cái que xiên bụng nó, kê lên than nướng chứ còn làm sao? Nướng mồi mà cũng không biết!

Nó vót nhọn đầu cái que, xóc ngang con cá mồi, trao cho tôi. Tôi đặt lên than hồng một chốc, con thòi lòi ngậm quả ớt bèn nhe mồm ra, lưng vểnh cong; từ trong họng con cá vàng rộp đó mỡ bắt đầu chảy ra, nhiểu xuống than cháy nghe xèo xèo. Tôi nuốt nước miếng đánh ực một cái:

- Eo ôi! Thơm quá!

Thằng Cò cười lớn:

- Mình ngửi mùi cá nướng còn phát thèm, huống gì con rắn?

- Ừ thứ mồi này nhậy lắm Đêm nay, hai đứa bay ít ra cũng kiếm được năm bẩy con cỡ bắp chân... Cái thứ mồi nhái sống gặp nước bơi lom xom thì chỉ tổ quện cá lóc tới phá mất? - tía nuôi tôi cười hà hà. Khói thuốc lá vón quanh đôi mắt to, sáng lóng lánh. ông vui vẻ nói tiếp:

- Thằng An mới ra nghề đêm đầu tiên, đừng có xách giỏ về không đây, con ạ.

Ông kéo thúng gai đến bên chân, cầm lên vuốt từng sợi gai, sau đó lại rút cái giũa giắt bên vách ra giũa lại những chiếc lưỡi câu lụt. Tôi hỏi:

- Tía không đánh gai lại cho săn à, tía?

Thằng Cò cười hì hì:

- Vậy mà mày cái gì cũng khoe giỏi? Tưởng cái gì trong sách của mày cũng có Hử Tía ơi, đừng bày cho nó nghe tía!

Tía nuôi tôi vỗ vỗ đầu thằng Cò:

- Nó không biết thì phải bảo cho nó chứ. Có ai mẹ đẻ ra không học mà biết được!

Ông cầm một cuộn gai ước chừng bốn năm mươi sợi, to như cổ tay tôi, toàn là những sợi gai rời nhau, dài hơn thước, thong thả buộc chùm hai đầu lại, một đầu buộc vào chiếc lưỡi câu có ngạnh rất sắc. ông vừa cuốn chùm gai vòng quanh cổ tay làm như bộ con rắn quấn, vừa giảng giải.

- Rắn không có tay có chân, nhưng nó khỏe nhờ sức quấn của xương sống. Con trăn bắt nai, quấn con mồi siết chặt mãi, bao giờ mềm, giập hết xương, nó mới nuốt.

Thứ rắn rằn ri cóc, có con to cỡ bắp vế, ở dưới nước nó còn khỏe hơn con trăn! Khi mắc câu, nó cuốn dây câu và vặn mình xoay vòng siết lại mãi, dây to đến mấy cũng phải đứt Nhưng loài vật làm sao khôn hơn người được! Đây An, con xem đây! Toàn là những sợi gai rời. Hễ bắt đầu quấn thì gai mới bắt đầu săn. Càng quấn càng săn một lúc, thấy chưa đứt, nó bèn xoay ngược lại. Tức thời cuộn gai lại tháo ra. Cứ thế quấn và tháo ra suốt đêm, chùm gai câu vẫn trơ nguyên, không đứt một sợi?

Khi tía nuôi tôm tôi kiểm tra tất cả những cuộn gai và ướm xong từng lưỡi câu rồi, ông bèn bảo chúng tôi đi dằn bụng cho no, kẻo thức khuya mau đói lắm. Chúng tôi ăn cơm xong thì má nuôi tôi đã ôm nõ, đèn soi, mác và một cái giờ tre to tướng bỏ xuống xuồng rồi.

Tôi chạy ra, hỏi:

- Cần câu đâu, má?

- Ối cần kéo gì, con?

Thằng Cò bật cười lớn:

- Cần câu gởi bà Thủy ở ngoài sông. Ra ngoải lấy.

Thằng Cò giục tôi đi, nhưng tôi chưa muốn đi. Tôi cứ luẩn quẩn theo má nuôi tôi hỏi đủ thứ, như: khi rắn mắc câu rồi thì làm sao bắt, rủi bị nó cắn có làm sao không?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

25#
 Tác giả| Đăng lúc 4-1-2014 10:21:23 | Chỉ xem của tác giả
Tía nuôi tôi bảo:

- Cứ đi đi có thằng Cò, đừng ngại. Nó sẽ bảo cho...

Và ông bưng cái mẻ hun (đốt trấu để lấy khói xua muỗi) đặt xuống nước mũi xuồng ngước mắt lên trông ánh chiều sắp lụn:

- Đi bây giờ, ra đến chỗ câu thì vừa?

Tôi ngồi bơi mũi, thằng Cò ngồi bơi lái. Nước từ trong rừng U Minh theo các con lạch nhỏ đổ ra kênh, chảy ào ào như một thứ nước màu cà-phê đặc, cuồn cuộn thoát ra sông.

Bây giờ, mặt trời đã lặn vào những đám mây đỏ thẫm cuối dải rừng xa. Xuồng chúng tôi lướt qua một quãng sông, hai bên bờ lau sậy mọc rậm rịt. trước mắt tôi dần dần mở ra một mảng trời vàng rực. ánh sáng lấp lánh màu bụi vàng kim loại tỏa thành những đường dài rẽ quạt chạy tháng lên không. Một bầy cò nối đuôi nhau bay theo hình mũi tên, trông mệt mỏi vội vàng, những đầu cánh trắng nặng nề nhún lên nhún xuống quạt gió lướt đi cứ như vương vướng những tia vàng hấp hối khiến chúng không bay mau được. Xuồng vẫn trôi băng băng.

Một lúc lâu, qua khỏi cánh đồng ngập tím một màu hoa lục bình, chúng tôi bắt đầu chui vào vòm cây đen thẳm như một cái hang. Trời đã tối, những cành lá dại đan nhau thành một tấm trần kín mít, không để một tia sáng nhỏ lờ mờ của một bóng sao nào lọt xuống được . Tối như bưng mắt. Cái mẻ hun đặt trước mũi xuồng cứ phả khói mù mịt khiến tôi gần như ngạt thở. Tôi khom người chồm tới, thổi phù phù mấy cái vào những dầu củi ngún lem nhem. Lửa phụt nháy lên những ngọn mảng như lụa đỏ, chao qua chao lại. ánh lửa soi sáng hai bên cành lá rậm rịt, vụt kéo trở về những mảng màu xanh lục, đỏ, vàng, lốm đốm của những hình hóa lá bị nhấn chìm trong bóng tối đen ngòm. Tôi vừa thấy mình đỡ hãi hơn một chút, bỗng kêu lên:

- Ý ? Cái gì như rắn... Nhiều quá, Cò ơi.

- Rắn đâu mà rắn, mậy? Bộ rắn tới nạp mạng cho tụi mình hả?

- Ơ! Ờ không phải!

Tôi đã kịp nhận ra. Rễ cây mốc thếch quấn vào nhau trông như những nùi rắn đang chen nhau lặn xuống nước, đầu khuất dưới nước rồi mà khúc mình còn mắc trên bờ. Một tiếng tiu... u... ụt nổi lên đột ngột, vang dội cả khu rừng. Con chim ụt to tướng, lông rằn rục, từ trong bóng tối chập chờn lao vèo ngang qua đầu chúng tôi, luồng gió từ đôi cánh rộng quạt ra một mùi tanh, lờm lợm, ngửi thấy phát buồn nôn. Tiếng "u... u... ụt" của con chim đêm kinh tởm vọng rền trên mặt nước như đuổi theo sau lưng chúng tôi, càng làm cho chiếc xuồng như sợi hãi trôi nhanh.

- Chắc con chim ụt đánh hơi mồi rắn của mình, hắn ra muốn nhào vô xuồng kiếm chác hở mấy, Cò? - Tôi nói vu vơ cho đỡ tẻ.

- Tao biết đâu được!

- 'Cò', mà không biết được "chim" à?

- Không bỡn đâu nhá! đừng có nói lảng. Tại mày nên bây giờ mới chỉ đi tới đây. Không thì xuồng đã ra tới sông lâu rồi.

Tôi lặng thinh, không dám ừ, cũng tại mình cứ luẩn quẩn theo bên ba má nuôi hỏi linh tinh, chứ như đi sớm hơn, có lẽ bây giờ đỡ phải sợ rừng tối. Bụng tôi cứ hồi hộp như thế nào ấy. Sợ không ra sợ, lo không ra lo.

Vì tôi ngồi bơi mũi cạnh mẻ hun, xông hơi lửa nóng một lúc, nên mồ hôi vã ra ướt cả trán. Muốn thò tay vào ngoài be xuồng vốc nước lên rửa mặt mà không dám. Tay tôi cứ thò xuống lại rụt lên mấy lần.

- Cái gì lóc bóc như cá ăn vậy, Cò?

- Tôm tít búng đấy, chứ có rắn đâu mà sợ mấy? Thằng nhát quá!

Tôi nghe nó nói, có phần vững bụng hơn, bèn thò tay xuống khoát nước lên rửa mặt. ừ, cá ăn tía thì nghe phải giống như nồi com sôi kia. Má nuôi tôi có kể rồi, bà còn dặn tôi phải chú ý đề phòng. Cá trê đi từng đàn, bơi đặc cả nước, quẫy móng lách tách lục ục như nước cơm sôi, lăm tăm một quãng dài trên sông. Đi chài mà gặp cá ăn tía, quăng chài xuống, khi kéo lên nếu gặp loại chài cũ bở bở, có thể dứt tung chài. nhưng nguy hiểm nhất là rắn. Rắn hổ đất cứ bơi theo trên mặt nước để ăn bọt nhớt cá. Đó là những con rắn đang luyện nọc, cắn ai thì có trời xuống cứu...Má nuôi tôi nói như vậy.

Chúng tôi đã ra khỏi vòm cây tối đen ban nãy. Vài ngôi sao le lói mọc lưa thưa. Bờ tràm khô đứng im lìm dưới ánh sao xanh biếc. Cành cây trắng ngoằn ngoèo như đám bạch xà ngóc cổ lên trời hứng uống mù sương trong chuyện đời xưa. Dòng sông đen ngòm, ghê rợn. Cây cối hiện hình ma quái, ẩn ấn hiện hiện trong lớp sương giăng bàng bạc. Cây đọt chiếc tròn tròn như ngôi mộ. Cây tràm quấn dây tơ hồng như người đàn bà bồng con đứng xõa tóc, tay vẫy vẫy. Cây dừa nước, lá nhọn hoắt như hai hàng gươm giắt dài theo sống lá tu tủa, chĩa mũi nhọn lên đe dọa trời. Ban ngày trông chẳng ra làm sao. Đêm tối, nhìn cái gì cũng đâm ra sờ sợ.

Muỗi vu vu từ bờ bay ra đuổi theo xuồng như những đám mây.

- Bơi ngược gió lên cái vịnh trên kia đi, An! Không thì nó... thằng Cò chưa nói hết câu đã phun nước miếng phèo phèo.

- Nó chui vô miệng mày hở?

- Ụa... Ụa...

- Tao hỏi nó chui vô mấy con rồi?

Thằng Cò ư. . . ư. . . khạc nhổ rồi phun tiếp liền mấy cái, không đáp. Hai tay nó mắc giữ cây giầm kìm lái, nó cởi trần mà lại không thể buông giầm để dùng tay đập muỗi được thành ra người nó cứ phải uốn éo, vặn qua vặn lại cho muỗi đỡ đốt. Tôi gác giầm mũi lên xuồng, chạy đến vuốt vuốt khắp mình cho nó . Eo ôi, hai bàn tay nhớt nhợt, ướt đầy máu.

- Cố chịu đựng vài trăm thước nữa. - Thằng Cò cười hì hì. Hàm răng nó trắng đều như hạt ngô non, ánh lên trong đêm tối.

Xuồng bơi ngược nước nghe ồ ồ, đi chậm như rùa. Hồi lâu mũi xuồng từ từ rẽ vào bờ, lủi vô một đám nước dừa tối đen. Thằng Cò đứng lên đằng sau lái, cầm giầm chống xuồng đi len lách trong những lùm dừa nước có những chiếc bẹ khô ai đốn từ đời nào, nhô lên chơm chởm. Một lát sau, tôi sốt ruột quá bèn hỏi:

- Tới chỗ câu chưa, mậy?

- Tới rồi. Tao còn chọn chỗ nào ngon sẽ xuống mồi. Đây thôi. Được rồi.

Nó cho xuồng đậu lại bên một tàu lá mọc nghiêng nghiêng:

- Thôi, sắp sửa mồi đi Thắp đèn lên.

- Có đây.

- Mày coi tao làm đây, coi mà bắt chước.

Nó với tay kéo tàu lá dừa quặt xuống, buộc chùm gai vào giữa sống lá. Tôi soi đèn, tay cầm con mồi. NÓ làm thoăn thoắt, coi bộ thành thạo lắm. Con mồi câu bị 1 lưỡi câu móc suốt từ đầu đến gần chót đuôi, còn chừa ra một tí đuôi cho rắn dễ nhầm. NÓ kéo cong tàu lá xuống, vừa đủ cho mồi treo lơ lửng cách mặt nước non gang tay.

- Biết để làm gì không? Thế này thì cá lóc hết phương chồm lên phá mồi. Hì hì! Mày chống xuồng thay tao, để tao ngồi mũi buộc câu cho.

Tôi giảu môi hứ một tiếng:
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

26#
 Tác giả| Đăng lúc 4-1-2014 10:25:38 | Chỉ xem của tác giả
- Không. Để tao buộc. Tao buộc được... Tưởng thứ gì khó kia.

Nó ngẫm nghĩ một chốc:

- Thôi được? cho mày làm thử một cái thôi nhá!

Tôi cười cười:

- Ừ mà hễ chừng có rắn mắc câu, tao sẽ giao cho mày bắt.

Hơn chục con mồi đã xuống rồi. Thằng Cò thở ra một hơi dài khoan khoái:

- Vái trời phật cho trúng bữa câu!

- Lần nào cũng khấn thế à?

- Không. Vì bữa nay có mày. Trúng một bữa câu, để cho mày thấy, mày lác mắt chơi vậy mà... Thôi, bây giờ ta ngủ đi.

Nó nói xong, lập tức chui vào nóp. Tôi ngồi bên mẻ hun, quạt cho đỡ muỗi. Hơi nước bốc lên lành lạnh. Im lặng quá. Không có một tiếng hạc sành kêu cho đỡ buồn.

Lâu lắm mới có bầy cá heo lục ục lẹc ẹc bâu dưới lườn xuồng ăn rêu. Rồi bầy cá cũng lội đi. Chỉ còn tiếng lách bách của hai bàn tay tôi đập muỗi.

Thằng Cò cựa quậy rốt roạt trong nóp rồi chui ra:

- Mày không ngủ hử Ngồi đãi muỗi sao, An?

- Không.

- Sao coi mày buồn vậy?

Tao nhớ nhà... - Tôi thở ra, không nói nữa.

Thằng Cò tiu nghỉu, bèn nói lảng.

- Mày đừng sợ nhá! Để chừng bắt được con rắn bự, tao bẻ răng nó cho mày coi. Ờ, mà muỗi nhiều đa?

Nói xong, nó lần lưng móc ra một cái vỏ diêm. Nó rút ra một que, đút vào phân nửa, đoạn nó đóng bao diêm lại.

Một tay cầm vỏ diêm, một đầu cầm đầu que diêm phía ngoài, nó bắt đầu kéo ra kéo vô nghe két... két... kít... kít...

- Làm cho muỗi sợ. Nó tưởng dơi. Hì... hì...

Tôi cũng cười theo nó và lần mò tới ngồi bên, coi trò chơi lý thú của nó bầy ra. Quả thật, muỗi nghe két... két... kít... kít, sợ gặp đàn dơi, vo ve dần bay đi hết. Tôi ngồi dựa vào lưng thằng Cò một lúc, thiu thiu buồn ngủ thằng Cò ngáp một hồi, tay buông cái vỏ bao diêm ra. Hai thằng ôm nhau nằm còng queo giữa xuồng.

Đầu canh hai, trăng từ từ mọc lên bên kia dải rừng, to như một cái nong. Tôi mở mắt ra, sờ tay thấy sương thấm ướt khắp người. Trong lớp sương đục nhờ nhờ, vầng trăng đỏ như một cái lòng đỏ trứng khổng lồ. Càng lên cao, trăng càng bé lại. Nhìn qua be xuồng, thấy nước gợn lăn tăn... Tôi vừa thiu thiu chợp mắt lại, bỗng nghe thằng cò vụt nhổm dậy:

- Dậy mau! Dậy mau? Dính một con rồi.

- Tao vừa thức đây mà. Có thất cái quái gì đâu.

- Mày biết cái con khỉ gì? - Nó quát tôi.

Tôi lập tức đánh diêm thắp ngọn đèn soi. Tay tôi run quá, tim cứ đập thình thình. Thằng Cò ấn cây giầm vào tay tôi, ra hiệu cho tôi chống xuồng tới nó cầm cái mác trong tay, một tay đưa đèn lên soi phía trước. Ồ, kia rồi?

Tàu lá dừa nước bị ai kéo cứ dập lên dập xuống, làm nước bắn tung tóe. Tiếng dây câu nghiến kìn kịt trong tiếng lá dập xuống nước nghe kinh quá. Tôi kêu oái một tiếng, đứng chết sững Một con rắn rằn ri cóc to cỡ bắp chân ngươi lớn đang vung vẫy uốn mình lên quấn lấy chùm dây câu. Cái miệng nó há ra, đầy răng chơm chởm. chỗ ngạch lưỡi câu mắc bên mép, máu chảy giọt giọt xuống nước. Mỗi lần con rắn vặn mình cố siết cho đứt chùm dây câu, da nó nở ra , vồng lên như gai mít. Thằng Cò buông mác, thò tay nắm đuôi con rắn. Con rắn tháo ra, quấn một khúc vào tay thằng Cò. Thằng Cò chộp ngang lưng con rắn, bàn tay nó bé quá tuột ra vì không nắm hết. Con rắn càng gồng mình siết chặt cổ tay thằng Cò. Mồ hôi tươm ra ướt trán, chảy ròng ròng xuống má, nó bậm môi, cứ mặc thế, ngửa người ra sau lôi nguyên con rắn mắc câu vào xuồng.

- Coi chừng nó cắn chết à, Cò - Tôi thè lưỡi nhích ra xa.

Cắn quái gì nữa! Mà thứ rắn này cắn cũng như chó cắn thôi. Đưa miệng giỏ lại đây, mau mau đi Tôi kê miệng giỏ hứng con rắn. Thằng Cò ghé răng cắn chót đuôi con rắn một cái, con rắn đau quá vội tháo khỏi cổ tay thằng Cò, tuột gọn vào lòng giỏ. Thằng Cò một tay đậy nắp, một tay chụp cái mác chặt hai đầu sống lá Cả khúc sống lá chùm dây câu và con rắn đảo lộn, quẫy soạn soạt trong giỏ.

- Hì… hi... Da con này lột ra phơi, bán bộn tiền. Mai chúng mình bảo má nấu nồi ca-ri ăn chơi?

Con rắn to nhưng cái đầu nó chỉ bé bằng quả bàng thôi. hai con mắt đục lừ lừ nhìn ngọn đèn soi. Thằng Cò hé nắp giỏ chộp cổ con rắn tháo lưỡi câu ra, lôi khúc sống lá dính chùm dây câu ra khỏi giỏ rồi thong thả đậy nắp, gài chốt lại.

- Để tao thử con rắn cho mày coi - Nói xong nó thọc một ngón tay vào mắt giỏ gãi gãi lên lưng con rắn. Khi con rắn quay ngoắt lại toan mổ vào ngón tay thì thằng Cò đã rụt ngón tay ra rồi.

- Cu cậu bị ớt cay, sưng cả miệng đấy, mày thấy không? Vậy, mình mới dễ bé răng. Mà nó cũng chẳng cắn mổ gì được nữa...

Tàu lá đằng kia rung lên sàn sạt. Thằng Cò reo lên:

- Sướng rồi? Dính một con nữa rồi!

Tôi chụm chân nhẩy đồm độp trên xuồng, làm chiếc xuồng nghiêng qua lắc lại tí nữa là chìm.

- Ấy là nhờ mình buộc chùm dây câu vào sống lá, phải không Cò? Chứ đến cần câu to bằng cật tre đi nữa thì nó nhổ lên và lôi đi tuột, mày nhỉ!

Con này của mày đó, An nhá? Của mày buộc câu mà.

- Ừ tao làm cũng được, khó gì mấy Nhưng mà... con này mày cứ bắt nữa đi, Cò ạ. Để tao xem mày bắt vài trận nữa đã. Chừng có con khác mắc câu, tao bắt thử cho mày coi, có được không?

Tàu lá đang bị kéo ghì xuống nước bỗng bật tung trở lên.

- Thôi chết cha tôi rồi, An ơi! Mày buộc làm sao mà nó mới kéo có mấy cái đã tuột luốc rồi!

Tôi không biết nói ra sao, tay buông giầm rơi xuống xuồng cái độp, nhìn theo những giọt nước từ trên tàu lá đổ xuống ròng ròng, tiếc ngẩn tiếc ngơ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

27#
 Tác giả| Đăng lúc 4-1-2014 18:48:43 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9

Đi lấy mật

Buổi sáng, đất rừng thật là yên tĩnh. Trời không gió, nhưng không khí vẫn mát lạnh. Cái lành lạnh của hơi nước sông ngòi, mương rạch, của đất ấm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ bình minh. ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao qua một lớp thủy tinh.

Tía nuôi tôi đi trước, bên lưng lủng lẳng chiếc túi da beo, lưng mang cái gùi tre đan đã trát chai, tay cầm chà gạc lâu lâu, ông vung tay lên một cái, đầu con dao rừng rất sắc phạt ngang một nhánh gai và dùng cái mấu cong ở đầu lưỡi dao dài có đến sáu bảy tấc ấy lôi phăng nhánh gai chắn đường vứt ra một bên để lấy lối đi. Thằng Cò đội cái thúng to tướng, trong thúng đụng một vò nước, mấy gói cơm nắm và cái áo ướt mồ hôi nó vừa cởi ra cuộn lại, trên thúng úp chiếc nón lá rách. Tôi đã chen vào giữa, quảy tòn ten một cái gùi bé mà má nuôi tôi đã bơi xuồng đi mượn của nhà đi ngoài xóm bìa rừng từ chiều hôm qua. Con Luốc chạy tung tăng sục sạo trong các bụi cây. Lần đầu tiên tôi theo tía nuôi và thằng Cò đi ăn ong đây. Mấy hôm trước, má nuôi tôi đã kể ti mỉ cho tôi nghe cách gác kèo ong thế nào, nhưng tôi vẫn chưa hình dung được ăn ong ra sao. Những điều má nuôi tôi kể, trong các sách giáo khoa không thấy nói. Khoa học tự nhiên ở trường chỉ mới cho tôi một khái niệm chung chung về xã hội loài ong, về những lợi ích của con ong, đại khái vậy thôi. Hiển nhiên từ những thời xa xôi thuở con người ăn lông ở lỗ cho đến ngày nay, người ta vẫn đi tìm lấy mật rừng bằng cách theo dấu đường bay của những con ong về tổ. Người ta phải khó nhọc lắm mới đưa được con ong rừng về nuôi thành con ong nhà, vì như thế, việc lấy mật sẽ dễ dàng và bảo đảm hơn.

Trong kho tàng kinh nghiệm của những nhà.nuôi ong trên thế giới ghi chép trong các sách vở mà tôi được nghe thầy giáo tôi kể, không thấy có nơi nào nói đến việc lấy mật bằng cách gác kèo như má nuôi tôi đã bảo cho tôi nghe vừa rồi.

- Thôi, dừng lại nghỉ một lát bao giờ thằng An đỡ mệt. Ăn cơm xong hẵng đi! - Tía nuôi tôi ra lệnh cho chúng tôi như vậy.

Quả là tôi đã mệt thật. Tía nuôi tôi chỉ nghe tôi thở đằng sau lưng ông thôi mà biết chứ ông có quay lại nhìn tôi dâu? Chúng tôi đã bơi xuồng đi từ lúc gà vừa gáy rộ canh tư. thằng Cò thì coi bộ chưa thấm tháp gì. Cặp chân của nó như bộ giò nai, lội suốt ngày trong rừng còn chả mùi gì nữa là.

Tía nuôi tôi ngồi tựa lưng vào một gốc cây ngái, nhồi thuốc lá vào tẩu. Con chó săn trung thành bao giờ cũng ngồi bảo vệ bên chân chủ. Thằng Cò bưng vò nước ra, ngửa cổ kề miệng vào vò uống nước ừng ực Bỗng nó đặt vò nước xuống, thúc vào lưng tôi.

Đố mày biết con ong mật là con nào Hỏi xong, nó đưa tay trỏ lên phía trước mặt. Tôi đảo mắt nhìn khắp nơi vẫn không thấy gì. Rừng cây im lặng quá. Một tiếng lá rơi lúc nào cũng có thể khiến người ta giật mình. Lạ quá chim chóc chẳng nghe con nào kêu.

Hay vẫn có tiếng chim ở một nơi xa lắm, vì không chú ý mà tôi không nghe chăng?

Cao quá đầu tôi một với tay, có những châm chấm đen không nhúc nhích. ĐÓ là ruồi xanh đang bay đứng. óng ánh lướt những lá bông súng dưới vũng kia là con chuồn chuồn bay ngang với những cánh mỏng và dài Bé như hạt khế, cứ lắc lư lắc lư từ đất nhoi lên và đáp vào một cành ngải khô trên đầu tía nuôi tôi là điệu bay của con mối cánh.

- Chịu thua mày đó? Tao không thấy con ong mật đâu cả.

Thằng Cò nghe tôi chịu thua, nó bèn vênh mặt lên cười, quay sang tôi:

- Bây giờ mày cứ nhìn kỹ vào khoảng cách giữa hai nhánh châm cao kìa! ờ! Đúng rồi. Nhìn một chỗ trống ấy thôi nhá. Nó tới liền bây giờ!

Đã lâu lắm mà sao tôi chưa thấy gì cả. Tôi vừa toan đứng dậy thì tía nuôi tôi đã đến cầm tay tôi trỏ lên:

- Đó con thấy nó chưa?

- Thấy rồi!

Tôi kêu khe khẽ. ờ, phải rồi Phải hết sức tinh mắt, thính tai mới tìm được những tay sứ giả của bình minh này. Một con. hai con... ba con... Rồi một đàn mười mấy con bay nối nhau như một xâu chuỗi hạt cườm, trong những tầng xanh cây lá, có một. cái chấm nâu đen cỡ đầu đũa vụt qua rất nhanh. Trên nhũng ngọn tràm cao, đang lướt qua một đàn li ti như nắm trấu bay, phát ra những tiếng kêu eo... eo... eo... eo... Tiếng kêu thật nhỏ, không chú ý theo dõi thì không thể nào nghe được.

Chúng tôi giở những nắm cơm vắt ra. ăn xong, bấy giờ bóng nắng mới bắt đầu lên. Gió cũng bắt đầu thổi rao rao theo với khối mặt trời tròn đang tuôn ánh sáng vàng rực xuống mặt đất. Một làn hơi nhè nhẹ tỏa lên phủ mờ những bụi cây cúc áo, rồi nhè nhẹ tan dần theo hơi ấm mặt trời. Phút yên tĩnh của rừng ban mai dần dần biến mất. Chim hót. líu lo. Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất. Gió đưa mùi hương ngọt lan ra, phảng phất khắp rừng. Mấy con kỳ nhông nằm ươn mình phơi lưng trên gốc cây mục, sắc da lưng luôn luôn biến đổi từ xanh hóa vàng, từ vàng hóa đỏ, từ đỏ hóa tím xanh... Con luốc động đậy cánh mũi, rón rén mò tới. Nghe động tiếng chân con chó săn nguy hiểm, những con vật thuộc loại bò sát bốn chấn, to hơn ngón chân cái kia, liền quật chiếc đuôi dài chạy tứ tán. Con núp chỗ gốc cây thì biến thành màu xám vỏ cây. Con đeo trên tấm lá ngái thì biến ra màu xanh lá ngái.

Chúng tôi tiếp tục đi tới một cái tráng rộng. Giữa vùng cỏ tranh khô vàng, gió thổi lao xao, một bầy chim hàng nghìn con vọt cất cánh bay lên. Chim áo già màu nâu, chim manh manh mỏ đỏ bóng như màu thuốc đánh móng tay, lại có bộ lông xám tro điểm những chấm trắng chấm đỏ li ti rất đẹp mắt... Những con chim nhỏ bay vù vù kêu liu ríu lượn vòng trên cao một chốc, lại đáp xuống phía sau lưng chúng tôi.

- Chim đẹp quá, Cò ơi! - Tôi tặc lưỡi, kêu lên.

- Thứ chim cỏ này mà đẹp gì!

- Ở đây chim nhiều quá. Bữa nào tụi mình đi bắn một bữa đi.

- Thứ đồ bỏ, không ăn thua gì đâu. Mày mà gặp "sân chim" thì mày sẽ biết...

Nó nói cách lơ là như vậy rồi cứ cắm cúi đội cái thúng đi Tôi muốn hỏi về cái "sân chim", nhưng vì tự ái và nghĩ nếu mình gặp cái gì cũng hỏi thì nó sẽ khinh mình dốt, bèn im im đi tới.

Lội qua mấy vũng lầy sâu quá gối, chúng tôi đã đến chỗ lấy mật.

Tía nuôi tôi ngồi xuống, dáng rất ung dung. ông tháo miệng túi da beo ra, bỏ cái tẩu vào. Rồi ông xé mảnh giấy nhật trình cũ, cuộn một điếu thuốc lá to bằng ngón chân cái bật lửa lên đốt hút.

- Sắp lấy mật đa, này An! - Thằng Cò trỏ điếu thuốc lá to tổ bố đang cháy như cây đuốc kia, bảo tôi.

Tôi chẳng hỏi gì thêm, cứ lặng thinh. Nó cũng không thèm chú ý đến vẻ mặt khó đăm đăm của tôi , cứ nắm tay tôi lôi đi lại còn khoát tay ra hiệu bảo tôi đi thật khẽ. Tôi nhìn theo ngón tay nó trở lên một kèo ong gác trên cây tràm thấp. Tổ ong kia rồi! Sự mừng rỡ làm tôi quên phắt cái bực mình vừa qua.

Tôi lại hỏi:

- Sao biết nó về cây này mà gác kèo?

- Thằng mau quên hé! Vậy chớ mấy bữa nay, má nói gì cho mày nghe đó? - Nó chành môi ra cười hì hì, trông cái miệng thấy ghét quá.

Tôi ngắm nhìn tổ ong như cái thúng, lúc nhúc không biết bao nhiêu ong, dần dần nhớ lại lời má nuôi tôi kể.

"Rừng thì mênh mông, biết bao nhiêu cây! Một cây còn biết bao nhiêu nhánh? Biết con ong sẽ đóng tổ Ơû cây nào, nánh nào? Có phải bạ chỗ nào nó cũng gởi mật đâu?”

Nhưng làm nghề nào rồi khắc phải thạo nghề ấy con ạ! - Má nuôi tôi đưa mắt trông ra những cánh rừng tràm lờ mờ khuất sau những bụi cây bình bát dại mọc quanh hè, ngẫm nghĩ một lúc rồi nói tiếp:

- Gió thổi có hạng, cây tốt cũng có vùng. Chọn được vùng rừng tốt, biết rằng đến mùa xuân tràm sẽ kết nhiều hoa, mình mới định chỗ gác kèo. Phải xem hướng gió, tính trước đường bay của ong mật. Đó là những chỗ "ấm", cây dày, không bị ngọn gió thốc thẳng vào và ít khi có những dấu chân người đi bắt rắn, nguờỉ đi đốn củi lội đến...

- Kèo là gì, hở má?

- Ờ kèo cũng là nhánh tràm thôi. Nó to cỡ cổ tay mang nhiều nhánh con tua túa vào quãng giữa Mình chặt lấy một khúc dài hơn thước tây , một đầu có cái nhánh con dùng làm cái mấu. Chọn được vùng rồi, còn phải chọn cây cây nào vừa kín, vừa im, có ít. nhiều bóng nắng kia.

Con ong không thích đóng chỗ rợp. Ở những nơi đó, bao giờ mật cũng chua, dễ bị ẩm. Gác chiếc kèo chênh chếch lên cây tràm xong, phải rửa bớt (chặt bớt) những nhánh chung quanh để khi lấy mật khỏi vướng. Kèo chặt vào khoảng giữa tháng mười một… Những cơn mưa muộn sẽ rửa hết mùi sắt ở hai đầu kèo bị dao rựa chặt, và nhánh kèo cũng đủ thời gian khô đi , cũ đi , giống với những nhánh khô khác trên cây. Kèo nào còn mùi sắt của con dao mới chặt thì con ong mật chúa kỵ, nó không bao giờ đóng tổ đâu...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

28#
 Tác giả| Đăng lúc 4-1-2014 18:50:17 | Chỉ xem của tác giả
- Coi bộ cũng không khó lắm hở má?

Má nuôi tôi vò đầu tôi, cười rất hiền lành. Tôi cũng cười theo. Bà dặng hắng, nói:

- Chẳng dễ đâu. con ạ! Nhiều nguời trở thành "dân ăn ong" đã năm mười năm trong nghề, vậy mà gác kèo xong tới mùa mật, mang gùi lên lưng vào rừng, lại mang gùi không trở về.

- Ủa! Tại sao vậy, má?

- Định không đúng chỗ, đoán sai hướng gió chứ sao?

Mắt tôi vẫn không rời tổ ong lúc nhúc trên cây tràm thấp kia.

Tía nuôi tôi đã đi lần tới, đứng phía trên hướng gió. ông hít một hơi cho điếu thuốc đỏ lên, và từ từ đưa đầu khói cháy lại gần tổ ong. Quả thật Thảo nào người ta hay nói "như ong vỡ tổ"! Ong vỡ tổ là lúc này đây. không biết cơ man nào là ong. Chúng bay vù vù, đen ngòm, loạn xạ, thành một vầng đen như cái chiếu.

Bỗng thằng Cò kêu "oái" một tiếng hai tay vò trán lia lịa.

- Có ong sắt, tía ơi! Nó đánh con một vết đây nè.

Tôi nhanh trí ngược hướng gió chạy ra xa để tránh bầy ong, và nhân thể bứt vội vàng một nắm cỏ tranh và sậy khô đưa lại cho tía nuôi tôi:

- Tía ơi, đốt nó đi, tía?

Tía nuôi tôi mỉm cười , khoát khoát tay:

- Đừng? Không nên giết ong, con à! Để tía đuổi nó cách khác...

Tía nuôi tôi mở túi da beo, lấy vôi bôi chỗ vết ong đốt trên trán cho thằng Cò. Đoạn ông mở gói giấy, lấy ra cục a nguỵ - cái thứ thuốc dẻo quánh, màu vàng xỉn mà tôi đã thấy dạo trước - véo một miếng gắn vào đầu một cọng sậy ông bảo tôi bật lửa lên, rồi đốt cháy miếng thuốc.

Khói vị thuốc bốc hôi quá, tôi chóng mặt ọe ọe luôn mấy cái tưởng đã nôn rồi. Tía nuôi tôi cầm cọng sậy có gắn miếng thuốc bốc khói đưa lên kê vào gần tổ ong. Bầy ong hoảng hốt nối nhau bay mất không còn một con.

Trên nhánh kèo khô còn trơ lại cái tàn ong sáp trắng to bằng chiếc nón, nặng chĩu những mật vàng. Tía nuôi tôi rướn. chân lên, gượng nhẹ đỡ nhánh kèo xuống. Ông vắt mật vào cái gùi của tôi, còn sáp thì ném vào cái thúng của thằng Cò, thấy tôi vét một tí mật dính chỗ miệng gùi đưa lên mũi, thằng Cò cười hì hì:

- Cho mày ăn thả cửa? Cứ uống no đi. Chỉ sợ mày say không đi được thôi. Mặt nó nhăn nhó, mấy vệt vôi trăng trắng bôi vào giữa trán dúm dó lại coi như mặt hề.

- Mày có thấy khỉ ăn ớt chưa hở Cò? - Tôi hỏi nó.

- Ờ? Cho mày cười tao... Chốc nữa, trời xui đất khiến, gặp con ong lỗ nó táng cho mày một vệt, rồi mày sẽ biết.

Từ sáng sớm đến lúc gần về chiều, tía nuôi tôi đã gỡ hơn năm mươi kèo ong. Mật đầy cả hai gùi. Tôi mang gùi mật óc ách đằng sau lưng mà vẫn cảm thấy nhẹ tênh, và tiếc cái gùi bé quá.

- Một tổ nữa kia, tía ơi!

- Thôi để mai. Chà, năm nay mật trúng lắm? Sáng mai phải mang vài thùng thiếc nữa mới lấy hết mật. Mình mới lấy chưa được nửa số kèo đã gác mà! - Tía nuôi tôi vừa nói vừa đưa bàn tay dính đầy mật ra cho con chó săn liếm.

Chúng tôi tháo gùi, đặt đồ lề xuống bên một gốc cây. Cần phải nghỉ, ăn cơm cho lại sức trước khi trở về...

- Tía ơi! Ở đây có gấu không, tía? - Tôi hỏi.

- Rừng này không có gấu đâu. Con sợ à?

- Không! Con hỏi thế thôi. Gấu nó hay ăn mật lắm. Có gấu, nó sẽ lấy hết mật của mình chứ!

- Ừ, nhưng mà ăn mật thì chẳng lo. Ăn làm sao hết được mật rừng U Minh này? Chỉ lo... nó ăn con ong thôi!

- Gấu cũng án con ong à?

- Không. Những con khác kia. Chuồn chuồn này, bọ ngựa này, nhện này... và còn bao nhiêu thứ chim chóc khác nữa Cả con ó rằn cũng ăn ong. Chỉ vài con ó rằn là có thể ních trụi một tổ ong ấy!

- Thế ong không đốt họng nó à?

- Đốt thế nào được? Chim ó khôn lắm. Đớp một cái vào mỏ, là nó lừa lựa cắn nát cái kim ở đít ong ngay? Còn như con chuồn chuồn thì nó chộp ngang cổ ong, bộ răng khoẻ như hai lưỡi kéo thép của nó xén đầu con ong làm cho đầu rơi tức khắc, nó không ăn hai cánh đâu, chỉ nhai nuốt khúc mình thôi?

Tôi ngồi nhìn lên kèo ong, thấy nó cũng giống như những tổ ong rừng vẽ trong sách vậy thôi. Nhưng có một điều khác là không phải ngẫu nhiên mà nó đóng trên một cành cây nào đó. Chính tía nuôi tôi đã định sẵn cho chúng nó một nơi về đóng tổ... Theo như lời thầy giáo của tôi bảo, ngươi La Mã xưa kia nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hạng lỗ con vòng quanh miệng, quanh đáy. Người Mễ Tây Cơ làm tổ nuôi ong bằng đất nung, như một cái ống có hai cái loa hai đầu, giữa lưng ống đắp một hình đầu người nho nhỏ làm vật trang trí, dùng hai sợi thừng treo lên cành cây.

Người Ai Cập nuôi ong trong những tổ bằng sành, hình ống dài, xếp chồng lên nhau, đặt trên bãi cỏ. Ở Phi Châu người ta đục ruỗng ruột một khúc thân cây, vít kín hai đầu, chỉ chừa một lỗ khoét nho nhỏ cho ong ra vào, treo lên bằng một đoạn dây nhỏ có mấu, Ở xứ Tây âu, tổ ong lại lợp bện bằng rơm đủ kiểu, hình thù khác nhau...

Không có nơi nào, xứ nào có kiểu tổ ong hình nhánh kèo như vùng U minh này cả.

Những con ong vẫn nối nhau bay đi bay về trên tổ, trước mặt chúng tôi kia. Con nào cũng lượn một vòng tròn trước khi đáp xuống. Người ta bảo rằng đó là vũ điệu báo hiệu cua loài ong.

- Tía ơi, ong chỉ lấy mật chung quanh dây thôi à?

- Ờ, có khối hoa trong rừng này? Con thấy không, hễ con ong lượn một vòng trước khi đáp xuống, là báo hiệu nơi khai thác gần đây, còn nó lượn hình số 8 là báo hiệu nơi khai thác ở xa đây...

- Sao tía biết? - Tôi ngạc nhiên, trố mắt hỏi.

- Để ý xem lâu ngày thì biết.

- Thế mà con nghe người ta nói rằng con ong lượn hình tròn là báo hiệu chỉ đường bay đến nơi lấy mật còn nó lượn hình số 8 là báo hiệu đến chỗ lấy phấn hoa.

- Bậy? Bậy! Nhầm rồi. Nó chỉ báo hiệu nơi khai thác gần hay xa thôi. Còn lấy phấn hoa nhồi sáp hay lấy mật gì thì cũng là lấy thôi. Quan trọng đối với con ong là đường bay xa hay gần biết chưa?

Tôi ngẩn người ra một lúc lâu...

- Ê bộ mày còn nhớ nhà sao mà buồn vậy, An? - Thằng Cò vừa giở nắm cơm ra vừa hỏi tôi.

- Không, tao choáng váng một chút, thôi mà? - Tôi đáp.

Tía nuôi tôi nhìn lên bóng nắng, bảo:

- Thôi liệu dằn bụng đi... rồi còn về, các con.

Chúng tôi ngồi an cơm dưới một bụi cây tràm râm mát. Bóng nắng nghiêng nghiêng rọi chếch xuống chỗ tôi ngồi. Mấy con gầm ghì sắc lông màu xanh đang tranh nhau với bầy vẹt mỏ đỏ, giành mổ những quả chín trên cây bồ đề. Lâu lâu, vài ba trái quá vàng rụng rơi lộp bộp, lăn vào cạnh chân tôi như hòn bi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

29#
 Tác giả| Đăng lúc 5-1-2014 17:08:31 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10

Trong lều người đàn ông cô đọc giữa rừng

Quá đỏ đèn một chút thì xuồng chúng tôi về đến nhà. Má nuôi tôi nghe giầm khua dưới bến, cầm đèn bước ra, con Luốc chưa kịp phóng lên bờ, tôi đã bô bô khoe với má nuôi tôi:

Mật nhiều lắm má ơi, ra đây mà khiêng Má nuôi tôi ừ, một tiếng, soi đèn ngó xuống xuồng.

chúng tôi ì ạch khiêng hai gùi mật và thúng sáp ong lên nhà rồi, mà vẫn không thấy bà tỏ vẻ gì quan tâm đến kết quả chuyến thu hoạch của tía con chúng tôi lắm. Tôi tiu nghỉu ngồi xuống chõng, bao nhiêu câu sắp sửa kể cho má nuôi tôi nghe về chuyện đi lấy mật lý thú ngày hôm nay tan biến đi đâu mất cả.

- Chú Võ Tòng có đến tìm ông đấy - Má nuôi tôi nói với tía nuôi tôi - Chú không chờ được, đã về từ chập tối. Có chuyện gì vậy, ông nào có gặp chú đâu mà biết? Ắt có chuyện gì quan trọng. Cứ thấy bộ mặt của chú thì tôi đoán như vậy. Tôi gạn hỏi mấy lần, chú cứ ậm à âm ừ Cha chả, chú nhặt được Ở đâu một cái quần tây, ống ngắn ngủn mặc chí tới nửa ống chân lại còn đeo lưỡi lê nữa chứ.

Tía nuôi tôi cười khà khà, gật gù:

- Hôm nọ tưởng chú nói đùa, hóa ra thật! Bà thấy chú có mang súng ống gì không?

- Có chú dặn tôi, hễ ông về thì bảo ông lên nhà chú chơi. Ắt có việc gì đấy. Khổ quá, cứ dặn đi dặn lại mãi. Tôi hỏi có chuyện gì hệ lắm không thì chú lại bảo chẳng có việc gì.

- Có thể là...

- Việc gì thế ông?

- Tôi đã biết đâu. Để gặp chú xem đã...

- Thôi mặc các ông. Tôi chẳng hơi đâu... Chuyện gì cũng bô lô ba la nói hết với mọi người, mà vợ con trong nhà hỏi đến cứ ậm à ậm ừ...

Má nuôi tôi bấy giờ mới quay sang hỏi thằng Cò về vết ong đốt. Bà nướng một củ gừng, bảo nó nhai nuốt và trùm mền lại cho nó ra mồ hôi.

- May mà không gặp ong lỗ, thằng An nhớ coi chừng dưới chân dưới cẳng đấy.

- Con biết rồi. - Tôi đáp.

- Đạp nhầm tổ ong lỗ, nó đốt cho một vết thì thấy tám ông trời? Mày cười ư? Nó đốt trâu còn phải rống, chạy cong đuôi đãy con ạ.

Tía nuôi tôi bảo má nuôi tôi:

- Bà liệu thổi nắm cơm bây giờ đi. Nghỉ ngơi một chốc khoảng nửa đêm tôi đi đấy. Chà mật con nhiều lắm... Đi sớm một chút, ghé qua nhà chú Võ Tòng xem có chuyện gì.

- Sáng mai hẵng đi, tía à? - Thằng Cò đã trùm mền kít mít còn hé thò đầu ra, nói lắp bắp.

- Sốt rồi phải không - Tía nuôi tôi hỏi - Con ở nhà thôi. Ngày mai chưa đi được đâu. Để thằng An đi với tía thôi?

Khuya đêm đó, hai tía con tôi bơi xuồng ra đi, Thằng Cò phải ở nhà nên nó bèn kiếm cớ gỡ. Nó cứ rịt con Luốc lại không cho theo tôi: nó bảo không cho nó đi thì phải để con Luốc ở nhà choi với nó cho có bạn!

Xuồng ra tới sông, tôi hỏi tía nuôi tôi:

- Không đi lối cũ sao, tía?

Lên nhà Võ Tòng đã. Rồi cũng có kênh đi tắt ra chỗ lấy mật hôm qua. Kênh rạch chằng chịt trong rừng, đi lối nào chẳng được.

Chúng tôi lặng lẽ bơi xuồng đi rất lâu. Tới đã thấm mệt và bắt đầu buồn ngủ. Tía nuôi tôi nghe tôi ngáp, bảo tôi cứ ngủ đi, để một mình ông bơi cũng được . Tôi vừa đặt giầm lên xuồng, chưa kịp chui vào nó thì đôi mắt đã díp lại rồi. Chắc tôi ngủ một giấc lâu lắm thì phải. Khi tôi mở mắt rá, thấy xuồng buộc lên một gốc cây tràm. Không biết tía nuôi tôi đi đâu. Nghe có tiếng người nói chuyện rì rầm bên bờ. "A! Thế là đến nhà chú VÕ Tòng rồi!" Tôi ngồi dậy, giụi mắt trông lên. ánh lửa bếp từ trong một ngôi lều chiếu qua khung cửa mở, soi rõ hình nhưng khúc gỗ xếp thành bậc thang dài xuống bến. Tôi bước ra khỏi xuồng, lần theo bậc gỗ mò lên. Bỗng nghe con vượn bạc má kêu "Ché... ét, ché... ét" trong lều, và tiếng chú Võ Tòng nói:

- Thằng bé của anh nó lên đấy!"

- Vào đây An! - Tía nuôi tôi gọi.

Tôi bước qua mấy bậc gỗ trơn tuột, và dừng lại trước cửa . Con vượn bạc má ngồi vắt veo trên một thanh xà ngang, nhe răng dọa tôi. Tía nuôi tôi và chú Võ Tòng ngồi trên hai gộc cây. Trước mặt hai người, chỗ giữa lều, có đặt một cái bếp cà-ràng lửa cháy riu riu, trên cà-ràng bắc một chiếc nồi đất đậy vung kín mít.

Chai rượu đã vơi và một đĩa thịt khô nướng còn bày trên nền đất ngay dưới chân chủ và khách, bên cạnh hai chiếc nỏ vắt chéo lên nhau.

- Ngồi xuống đây, chú em! - Chú Võ Tòng đứng dậy, lôi một gộc cây trong tối đặt bên bếp lửa...

Chú cởi trần, mặc chiếc quần ka-ki còn mới, nhưng đã coi bộ đã lâu không giặt (chiếc quần linh Pháp có những sáu túi) Bên hông, chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê nằm gọn trong vỏ sắt, đúng như lời má nuôi tôi dã tả. Lại còn thắt cái xanh-tuya-rông nữa chứ.

Tôi không sợ chú Võ Tòng như cái đêm đã gặp chú lần đầu tiên ở bờ sông, mà lại còn có đôi chút cảm tình xen lẫn với ngạc nhiên hơi buồn cười thế nào ấy.

Tía nuôi tôi ngó tôi, cười cười nhấc cái tẩu thuốc lá ở miệng ra.

- Ngủ đẫy giấc rồi à? Tía thấy con ngủ say, tía không gọi. Thôi, đã dậy rồi thì ngồi đây chơi

- Nhai bậy một miếng khô nai đi, chú em. Cho đỡ buồn miệng mà - Chú Võ Tòng nhặt trong lửa ra một ra một thỏi khô nướng to nhất đặt vào tay tôi.

Con vượn bạc má lại kêu "Ché... ét ché.,. ét..., Ở phía trên đầu tôi. Tôi cứ mặc kệ nó, vừa xé miếng thịt khô ướp muối sả nướng thơm phúc cho vào mồm nhai, vừa đưa mắt nhìn quanh ngôi nhà lều. Trên vách lều đóng đầy mồ hóng đen sì, một chùm xương sọ khỉ ước chừng vài mươi cái treo lủng láng cạnh những đầu con nhọ nồi khô, những chân tay khỉ, tay chân dọc xâu từng đôi một, gác trên đoạn sào nhỏ. Mùi lông khét xông khói lâu ngày từ trong mớ lổn nhổn ấy tỏa ra, cùng với một làn khói gì mùi hăng hắc, màu xanh xanh bay ra từ chiếc nồi đậy kín vung sôi ục ục. trên bếp cà -ràng, khiến tôi có một thứ cảm giác rợn rợn không tả được. Dường như những cái bóng lặng lẽ ngồi bên bếp đây đang sống lùi lại từ cái thời kỳ loài nguời mới tìm ra lửa vậy.

°°°°°°°
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

30#
 Tác giả| Đăng lúc 5-1-2014 17:11:58 | Chỉ xem của tác giả
Không ai biết tên thật của gã là gì. Mười mấy năm về trước gã một mình bơi một chiếc xuồng nát đến che lều Ở giữa khu rừng đầy thú dữ này. Gã sống đơn độc một mình, đến con chó làm bạn cũng không có. Hồi ấy, rừng này còn nhiều hổ lắm. Một mình gã đã giết hơn hai mươi con hổ. Một buổi trưa gã đang ngủ trong lều, có con hổ chúa mò vào, từ ngoài sân phóng một cái phủ lên người gã . Bất thần gã tỉnh dậy. Gã vớ luôn cái mác thông bên người, cũng không kịp ngồi dậy nữa, cứ nằm ngửa thế mà xóc mũi mác lên đâm thẳng một nhát vào hàm dưới con hổ chúa, hai chân gã đá thốc lên bụng nó, không cho con ác thú kịp chụp xuống người. Con hổ chúa lộn vòng, rơi xuống đất. Lưỡi mác đâm từ hàm dưới thấu lên tận óc, làm nó không há họng được, nhưng vẫn còn cố vớt cái tát cuối cùng, để lại trên mặt gã một hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái dương xuống cổ. Không biết có phải do đấy mà gã mang tên "Võ Tòng" hay không? Chứ theo như một vài ông lão đa sự, thì ngày xưa gã là một chàng trai hiền lành, Ở tận một vùng xa lắm. Gã cũng có gia đình đàng hoàng như ai . Vợ gã là một người đàn bà trông cũng xinh mắt. Chị ấy lúc chửa đứa con đầu lòng cứ kêu thèm ăn măng. Gã đàn ông hiền lành, qúy vợ hết mực bèn liều xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về qua ngang bờ tre nhà tên địa chủ, tên này bắt gã bỏ mụt măng xuống và vu cho gã lấy trộm măng tre của hắn. Gã một mực cãi lại, nhưng tên đại địa chủ quyền thế nhất xã ấy cứ vung ba-toong đánh lên đầu gã . "Đánh đâu thì còn nhịn được, chứ đánh lên đầu là nơi thờ phụng ông bà... thì số mày tới rồi !" Lưỡi dao trên tay gã không cho phép tên địa chủ ngang ngược kia giơ tay đánh ba-toong lên đầu gã đến cái thứ hai. Nhát dao chém trả vào mặt đã gí tên bóc lột và hống hách này nằm gục xuống vũng máu. Nhưng gã không trốn chạy. Gã đường hoàng xách dao đến ném trước nhà việc bó tay chịu tội.

Sau mười năm tù đày, gã trở về làng cũ nghe tin vợ đã làm lẽ tên địa chủ kia, và đứa con trai độc nhất mà gã chưa biết mặt thì đã chết từ khi gã còn ngồi trong khám lạnh.

Người trong xã vốn ghét tên địa chủ hống hách, khấp khởi chờ xem cuộc rửa thù bằng máu lần thứ hai . Nhưng họ đã thất vọng. Gã chỉ kêu trời một tiếng rồi cười nhạt bỏ làng ra đi. Những người đa sự quả quyết rằng chính gã đã mang tên võ Tòng từ lúc xách dao đến nhà việc chịu tội.

Còn như những chữ bùa xanh lè xăm rằn ri trên người gã, và gã trở nên một người giỏi võ từ lúc nào, thì có kẻ nói đó là dấu vết trong những năm gã ở tù, lại có người bảo đó là mới có từ lúc gã đi giang hồ. Hơn mười năm sống trơ trọi giữa rừng mặc dầu cũng có nhiều người đánh tiếng mối mai cho gã, nhưng tuyệt nhiên Võ Tòng không để mắt tới một người đàn bà nào nữa. Ở trong rừng lâu năm chầy tháng, gã ngày càng trở nên kỳ hình dị tướng. Nhưng ai cũng mến gã ở cái tính tình chất phác thật thà, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không hề nghĩ đến chuyện người ta có đền đáp lại mình hay không. Điều đó, má nuôi tôi quả quyết, nói một cách chắc chắn như vậy...

Chú Võ Tòng vẫn ngồi đó, đối diện với tía nuôi tôi, bên bếp lửa. Tía nuôi tôi tay cầm một chiếc nỏ lên ngắm nghía; bật thử sợi dây nỏ trên đầu ngón tay nghe tưng... tưng" rồi lại đặt xuống.

Chú Võ tòng rót rượu ra bát uống một ngụm, trao bát sang cho tía nuôi tôi, và nói:

- Con dao găm của anh Hai cùng với cánh nỏ này, thừa làm nên chuyện. Mình thì cần gì tới súng? Mấy thằng nhát gan mới cần súng, vì súng ở xa cũng bắn được mà! Phải không anh Hai? Tôi cho rằng súng dở lắm, động tới thì kêu ầm ĩ. Tôi ghét tiếng nổ lắm. Như cái bận tôi làm vừa rồi đấy Tách một tiếng, chết ngay thằng giặc Pháp râu xồm, mà cái thằng đứng cách năm sáu thước không hay biết gì cả . Tới chừng tôi mò ra tháo cây tiểu liên nghe động sột soạt, nó mới quay lại thấy tôi, liền bắn tôi một phát súng mút nhưng trượt. Tiếng súng của nó bắn ra mà cha con chúng nó hoảng lên, hò hét chạy lung tung mới buồn cười chứ? Tôi xách cây tiểu liên bay vào rừng, chờ tối mò trở ra. May sao cái thây thằng râu xồm còn nằm thẳng cẳng để, đợi tôi đến lột hộ bộ quần áo ka-ki... Hê... hê... hê ! Khi lọt lòng mẹ, nó chui ra như thế nào thì chết như thế ấy... cho được thủy chung như nhất? Tôi chỉ lấy cái quần để che chỗ xấu xa của con người thôi, anh Hai à. Còn cái áo và khẩu tiểu liên, tôi biếu cho anh em lính đằng mình.

Trong giọng nói bỡn cợt của Võ Tòng có pha đượm một nói buồn chua chát, khiến tôi vừa ngồi nghe vừa nhìn bếp lửa cháy riu riu mà không khỏi bùi ngùi.

- Chú em cầm hộ! Lọ muối chỗ vách kia đưa giùm qua chút! - Chú Võ Tòng đổi giọng, vui vẻ bảo tôi.

Khi tôi cầm lọ muối lên thì thấy chú đã ngồi xổm xuống cạnh bếp, tay mở nắp vung trên nồi ra. Trong nồi một thứ thuốc gì đang sôi cuồn cuộn, đen nhánh và dẻo quánh như nhựa tráng đường, tỏa lên một làn khói mỏng xanh xanh, mùi hăng hắc. Võ Tòng không quay lại, chỉ với tay nhón lấy mấy hạt muối trong lọ tôi cầm đến. Chú bỏ một hạt muối vào món thuốc đen nhánh đang sôi, hạt muối nổ tách một tiếng bắn ngay ra khỏi nồi.

- Được rồi đấy? - Chú Võ Tòng nói xong, bỏ nốt những hạt muối còn lại vào nồi, rồi xoa tay đứng dậy.

Tiếng nổ lách tách bắn xa giòn tan chung quanh nồi thuốc. Bây giờ chú mới đến bên vách rút ra một bó tên tre đã vót sẵn, cầm từng chiếc tên nhúng đầu nhọn vào nồi thuốc vừa xoay lăn, cho thuốc quấn nhiều lớp vào đầu mũi tên. Xong một chiếc, chú xếp ra trên cái nong. Và chú tiếp tục cầm một chiếc tên khác, đua lên nheo mắt ngắm, nắn nắn lại cho thật ngay trước khi nhúng vào nồi thuốc để làm lại như lần trước. Tôi đứng xem người thợ săn áo thuốc tẩm thuốc độc vào đầu tên một cách say sưa, đến nỗi không dám thở mạnh.

Vào khoảng cuối canh năm thì ngót năm mươi mũi tên tre đã tẩm thuốc xong và lớp áo ngoài đầu tiên cũng vừa khô mặt. Nắn thấy không còn dính tay, chú Võ Tòng chọn ra hai muối chiếc giắt vào một bao tên làm bằng ống nứa khô.

- Chỉ sầy da một tí, đủ chết ngay anh Hai ạ? Nhưng thuốc này có thể uống được. Đau bụng quằn quại, nuốt vào một tí là khỏi ngay lập tức đấy. Đau mấy cũng khỏi?

Tôi nghe mà phát lạnh xương sống. Tôi không thể nín được buột miệng nói:

- Lỡ trong mồm, trong dạ dày, hay trong ruột bị lở loét gì mà nuốt vào thì bỏ mạng, chú ạ?

Võ Tòng chăm chú nhìn tôi một lúc, rồi còn lớn:

- Chú em nói ngẫm cũng đúng. Nhưng mà… những người nghèo, những người không ăn bậy, ít khi đau mồm và đau dạ dầy lắm?

Bên ngoài, trời rạng dần. Đã nghe một vài 'tiếng chim rừng ríu rít gọi nhau trở dậy đón bình minh trên những ngọn cây chung quanh lều. Chú Vọ Tòng trao chiếc nỏ và ống tên thuốc cho tía nuôi:

- Cứ tình hình này thì chúng nó sẽ mò tới đây thôi. Tôi qúy anh Hai là bậc can trường, nên mới dám chọn mặt gửi vàng. Chứ những mũi tên độc này mà lọt vào tay một người hèn nhát, thì nó sẽ gây nhiều tác hại đấy. Sở dĩ tôi không dám nói với bà chị, là còn e bà chị ngại điều nguy hiểm, biết đâu sẽ ngăn trở công việc của chúng ta.

Tía nuôi tôi vội đỡ lời:

- Chú phòng xa như vậy cũng phải. Đàn bà nhà tôi còn mê tín dị đoan, tin có trời có phật. Nhưng về cái gan dạ thì... chú cứ tin lời tôi , bả không thua anh em ta một bước nào đâu.

- Vậy thì tôi có lỗi với chị Hai quá trời, để bữa nào ta làm một bữa rượu để tôi tạ lỗi với bà chị của tôi mới được.

Tôi đã bước xuống cởi dây buộc xuồng mà con vượn bạc má còn chạy theo ra cửa nhe răng nháy nhó, dọa tôi, tía nuôi tôi dập đập tay vào lưng chú Võ tòng:

- Xin đa tạ chú! Đa tạ chú!

- Có gì đâu anh Hai. Vì nghĩa chung mà!

Tía nuôi tôi lưng đeo nỏ, hông buộc ống tên bước xuống xuồng. Tôi cầm giầm bơi nhưng còn ngoái lên, nói với:

- Chào chú ạ! Hôm nào chú sang chơi, nhớ mang theo một con nai hay một con heo rừng be bé, chú nhá!

- Ờ thể nào cũng có chứ? Chú nuôi đầy rừng, muốn con cỡ nào chú bắt cho đúng con cỡ ấy! - Chú Võ Tòng vẫy vẫy tay, cười lớn một thôi dài.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách