|
Tía nuôi tôi đáp, giọng từ tốn:
- Tôi là người vùng U Minh thượng... Giặc Pháp đã vào tới đó. Nay lênh đênh phiêu giạt... Còn chưa biết về đâu.
Hai người đàn ông đầu cạo trọc đưa mắt nhìn nhau. Tía nuôi tôi bưng bát rượu lên nhấp một hớp; chừng như đoán ra ý họ, ông đặt bát rượu xuống bàn, nói chậm rãi:
- Phải, tôi là người U Minh thượng. Nhưng nguồn cội tận xứ Tiền Giang kia. Thuở còn trẻ tráng, tôi cũng đã lặn lội nhiều năm trong nghề hạ bạc. Nghèo như chiếc lá rụng xuống dòng sông, nước trôi tới đâu mình theo tới đó. Bấy nay tôi theo nghề rừng, chẳng qua cũng vì mưu sinh theo hoàn cảnh, chuyện đó có chi là lạ...
Người đàn ông thấp lùn tức thời đứng phắt dậy, dang tay ra ôm tía nuôi tôi, cười ha hả:
- Vậy thì huynh ông neo lại khúc này, trở về nghề cũ, chúng ta hiệp nhau làm ăn, được chứ?
Tía nuôi tôi cười cười, chưa đáp ra sao. Tôi giúp ông chủ quán dọn thịt nướng ra bàn và gọi thằng Cò lên xem ông giết thịt con kỳ đà. Tôi cứ chạy ra chạy vào, khi thì quạt lửa, khi thì lấy tí muối ớt, khi thì rót thêm mỡ rái cá vào đĩa thịt tự tôi tìm thấy trong bếp và mang ra bàn rượu. Tôi cảm thấy mình bận rộn nhưng vui vẻ như thằng bé hầu rượu trước kia. Chẳng mấy chốc mà họ đã uống cạn hai lít rượu, thứ rượu ngon nhất mà ông chủ quán bảo chỉ để dành riêng cho khách quen sành sỏi. Rượu vào thì lời ra. Họ nói đủ thứ chuyện về sông nước, và trong câu chuyện đã bắt đầu xưng hô anh anh chú chú cởi mở thân mật. Dường như ba ông khách rượu ấy và tía nuôi tôi là những người bạn cũ, xa nhau lâu ngày, giờ mới tình cờ gặp lại vậy. Khi biết ông bạn phương xa vừa tới có "bà nội tướng" đang thổi cơm dưới thuyền, ông cụ già bịt khăn đỏ bèn trịnh trọng bước ra sàn cầu, chắp hai tay trước ngực hướng vào mũi thuyền, sửa giọng kính cẩn:
- Chẳng mấy thuở được gặp anh Hai... Xin kính mời chị Hai quá bước lên quán, dùng một chén rượu mọn với anh em chúng tôi.
Má nuôi tôi "cám ơn" và từ chối năm lần bảy lượt không xong, đành phải đội khăn bước lên quán. Món thịt kỳ đà nấu ca-ri nước cốt dừa cũng vừa bưng dọn ra bàn bốc khói thơm lừng. Cả gia đình chúng tôi, ba ông phường săn kỳ dị và ông chủ quán lùn tịt cùng ngồi vào bàn, dùng bữa cơm tối một cách hết sức vui vẻ. Cả con Luốc cũng có phần một bát thịt to tướng trộn cơm nguội mà ông chủ quán đã có "nhã ý" dọn riêng cho nó trước sàn cầu.
- Bao giờ giặc tấn công tới đây, chúng ta sẽ liệu. Còn bây giờ, làm nghề cứ lo làm nghề. Còn phải nghĩ tới miếng sống chứ. Tôi nói vậy, liệu có phải không chị Hai?
Người đàn ông cao lêu nghêu bắt đầu làm quen với má nuôi tôi bằng câu mở đầu ấy. Người đàn ông thấp lùn vội nói tiếp theo:
- Ắt chị Hai vui lòng để anh Hai cùng đi làm ăn với chúng tôi chứ?
Má nuôi tôi cầm bát lên tay, nhìn tía nuôi tôi:
- Xin các chú hỏi ông nhà tôi. Chứ tôi là phận đàn bà!
Ông chủ quán ngứa miệng, vung hai tay lên:
- Chị Hai còn theo xưa quá. Người ta nói nhất vợ nhì trời mà!
Mọi người đều cười, khiến ông chủ quán cứ xoay quanh hết nhìn người này đến nhìn người khác, lắc la lắc lư ra vẻ đắc chí với câu pha trò của mình lắm. Không biết có phải vì có mặt má nuôi tôi mà các ông già trở nên lịch sự, vui vẻ và hoạt bát hẳn lên không? ông cụ già bịt khăn đỏ hỏi má nuôi tôi một cách khoan thai:
- Ngày xưa, chị Hai cũng theo nghề câu chứ?
Má nuôi tôi lắc đầu:
- Tôi sợ lắm. Chỉ có ông nhà tôi thôi. Tôi chỉ câu lòng tong cá chốt, chứ thứ đó tôi sợ lắm!
Người đàn ông cao lêu nghêu nhếch mép cười, bàn tay đưa lên gãi gãi cái đầu trọc nhẵn thín:
- Nói không phải phô phang với chị Hai và các anh tôi đây, chứ thuở mười ba mười bốn tuổi, tôi đã theo ông nội tôi đi bắt cá sấu như bắt cá lóc rộng trong khạp vậy thôi. Vào mùa khô, chúng tôi lội vào rừng cỏ, men theo những cái bàu giữa rừng tìm cá sấu. Hồi đó, cá sấu còn nhiều lắm. Bàu nào cũng có. Không nhiều thì ít. Tệ lắm cũng năm bảy con trở lên. Bà con quen gọi là ao cá sấu. Chọn được ao sấu nào có nhiều sấu hoa cà rồi, chúng tôi mới phát sậy, phát cỏ rũ xuống phơi nắng vài ngày cho khô. Dùng thuổng đào một đường nhỏ từ mé ao lên rừng, càng xa bờ càng cạn dần, chừng mươi thước. Sau đó mới ôm sậy, cỏ khô thả xuống cho phủ kín mặt bàu và ném lửa đốt cháy...
Thằng Cò buột miệng hỏi:
- Cho sôi nước, cá sấu chạy lên bờ phải không chú?
- Cậu em này đoán gần đúng! Nhưng không phải vậy đâu. Nước lênh láng cả bàu, làm gì sôi được? ừ, mà nếu mình thả bổi khô xuống thật dày, thả liên tục, đốt nóng nước thì nó cũng có thể chạy lên... Thả bổi xuống rồi, mình ném lửa đốt cháy. Khi lửa tắt thì mặt bàu đã bị phủ kín dưới một lớp tro dày chừng hai ba đốt tay. Cá sấu trừng lên thở thì bị tro cay mắt, trầm lâu thì ngạt, mà hễ bị tro cay mắt là y như trự ta đập đuôi chạy chạy lên bờ tức khắc. Mà không phải chạy lung tung đâu. Chúng nối đuôi nhau trườn theo con đường mương đào sẵn, bò lên rừng. Thấy người, con nào cũng há họng ra, toan đớp. ông nội tôi bèn đút vô họng nó một khúc gỗ mớp, dài chừng ba tấc. Nó liền táp phậm một cái, hai hàm răng dính chặt lại như ngậm cục kẹo mạch nha, không há ra được. Tôi lập tức cầm mác xắn trên sống lưng, chỗ giáp chân sau, để cắt gân đuôi. Cái đuôi chỉ còn có nước đập qua đập lại nhè nhẹ, như đuổi ruồi, chứ còn quật nổi ai? ông cháu tôi bèn lấy dây lạt dừa trói thúc ké hai chân sau lên lưng, còn hai chân trước thả tự do. Khớp mõm xong rồi, bỏ đấy, bắt con khác... Ui chao!... Ui chao! Có bàu, chúng tôi bắt vài chục con trong một ngày. Cứ ba con thì dùng bốn đoạn tre buộc xâu lại một hàng ngang, như kiểu ta cặp gắp nướng chả. Rồi lấy hai cây tre dài kiền tất cả, xếp dính liền thành một dọc dài, hướng đầu chúng nó tới trước. Sau đó mới phát sậy, dọn một đường như đường cộ trâu từ bàu chạy thẳng ra bờ sông nào gần nhất. Thế là hai ông cháu tôi nhảy lên đứng giữa lưng bầy quỷ sứ đó, mỗi người cầm một cây mun quơ quơ đập vào hai cây tre dưới chân, hét lên. Chúng nó cứ theo đường dọn trống ấy, kéo nhau đưa nguyên đàn, bò ra bờ sông. Bao giờ cũng có thuyền lái mua chực sẵn ở đó. Gặp khi chẳng có lái mua thì mình chịu khó tháo ra, khiêng từng con bỏ xuống thuyền của mình, chở đi bán... ấy, ngày xưa chúng tôi săn cá sấu dễ ợt như vậy đó, anh Hai chị Hai ạ!
Tía nuôi tôi ngồi nghe chăm chú. Chắc câu chuyện của người phường bạn vừa kể đã gợi lại trong ông những ngày mình còn là anh thợ câu lận đận ở mạn Tiền Giang. Chẳng vậy mà ông đã chống hai khuỷu tay lên mặt bàn, hai bàn tay to lớn ngửa ra đỡ lấy cằm, mặt đăm chiêu hồi lâu:
- Ở vùng tôi, bắt được một con cá sấu có khi phải mất vài ba con vịt sống làm mồi. Nhiều công mà cũng tốn kém. Dạo đó, năm nào trên Biển Hồ hoặc Nam Vang cũng chở cá sấu về bán ở các chợ tỉnh dọc sông Cửu Long, hết bè này tới bè khác. Hàng trăm con một chuyến bè. Thịt cá sấu bé trên ấy trắng lắm, lại giòn, mùi thơm ngon như thịt gà, bán cũng rẻ. Mình lâu lâu mới bắt được một con, cốt lấy tấm da, chứ thịt bán chẳng đặng mấy đồng tiền... Tranh nhau không lại với giá thịt cá sấu trên Biển Hồ chở xuống, nhiều lúc thua, buồn cũng chẳng thiết nữa.
Ông già bịt khăn đỏ bưng tô rượu lên uống một hớp, đưa mu bàn tay quệt ngang mép, khà một tiếng sửa giọng:
- Bọn chúng tôi ở đây không câu vịt mồi. Nhưng cũng tốn kém đấy. Vì câu đèn mà! Lại phải trầm mình dưới nước, neo người cả đêm. Nhưng bắt được con nào là đáng tiền con nấy, anh Hai ạ! Chỉ lo cái thời buổi khó khăn, ba thằng giặc Pháp khốn kiếp nó có chịu để yên cho người ta làm ăn đâu!
Người đàn ông đầu trọc cao lêu nghêu rướn cổ lên như con kỳ đà, hỏi tía nuôi tôi:
- Anh Hai có quyết ở lại đây với bọn tôi không? Tại ngã ba Bàn Cùi, gần năm nay cá sấu biển về nhiều lắm. Có con to gần bằng chiếc ghe lườn. Nhờ đất đai âm trạch, cho anh Hai trúng mươi chuyến câu thì lo gì chẳng kiếm được cái vốn kha khá! |
|