Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 4091|Trả lời: 26
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại - Xuất Bản] Chỉ Gọi Tên Em | Thái Trí Hằng [Hoàn]

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
CHỈ GỌI TÊN EM






Tên tác phẩm: Chỉ gọi tên em
Tác giả: Thái Trí Hằng
Dịch giả: Nguyễn Tú Uyên
Công ty phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản: Nhà xuất bản thời đại
Độ dài: 16 chương
Thể loại: Tiểu thuyết
Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành
Nguồn: Tự type.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 29-5-2013 21:26:29 | Chỉ xem của tác giả


Chương 1



"Hi, em là Noãn Noãn, còn anh?"
Lần đầu gặp Noãn Noãn là ở Trại hè sinh viên hai bờ eo biển Đài Loan.
Tên đầy đủ của trại hè này ra sao tôi cũng quên rồi, chỉ nhớ mấy từ trọng điểm như "tìm về cội nguồn văn hoá" gì đó.
Hồi ấy tôi vừa qua bài thi vấn đáp luận văn thạc sĩ, đúng lúc lên trang web trường làm thủ tục tốt nghiệp thì đọc được về hoạt động này, tôi đã định sẽ nghỉ ngơi một tháng rồi mới đi làm nên bèn đăng ký luôn.
Tôi với mấy em khoá dưới cùng trường và nhóm sinh viên, nghiên cứu sinh của ba trường khác cùng bay tới Bắc Kinh. Sinh viên của bốn trường đại học Bắc Kinh đang đợi chúng tôi ở đó.
Hoạt động lần này diễn ra ở vùng phụ cận Bắc Kinh, kéo dài tám ngày bảy đêm. Dẫn đoàn có bốn giáo viên (Đài Loan, Bắc Kinh mỗi bên hai người), quản lý một nhóm khoảng năm mươi sinh viên.
Nói là quản lý nhưng các thầy chẳng hơn chúng tôi bao tuổi, mọi người đều cũng đã lớn cả nên các thầy chỉ phụ trách tượng trưng mấy việc như sắp xếp lịch trình giờ giấc còn lại để mặc chíng tôi tự do.
Tuy lỡ có xảy ra chuyện gì đều do các thầy chịu trách nhiệm, nhưng nguời căng thẳng lại là chúng tôi.
Lần đầu gặp mặt là lúc chuẩn bị dùng cơm tối.
Giáo viên hai bên lần lượt nói mấy lời khách sáo như đi đường vất vả rồi, không có gì không có gì, mời anh ngồi, không không mời anh ngồi trước, đừng làm khách một hồi, còn đám sinh viên ai nấy mặt mũi đều căng ra.
Nếu như bạn từng ngủ một giấc rất sâu, hẳn sẽ biết da mặt khi vừa ngủ dậy gần như không có tính đàn hồi.
Đúng thế, chính là cảm giác căng chặt thiếu đàn hồi đó đang bao phủ lên khuôn mặt tất thảy đám sinh viên chúng tôi.
Cả đoàn ngồi thành sau bàn, hai phút sau khi món thứ nhất được bưng lên, không ai động đũa.
Các thầy chu đáo mời mọi người cầm đũa, đám sinh viên vẫn cứ im lìm.
Bàn tôi ngồi không có giáo viên, mấy bạn cùng bàn không chỉ yên lặng e rằng đã đạt đến cảnh giới tĩnh lặng trang nghiêm.
Đúng lúc một giáo viên Bắc Kinh ở bàn bên mời đến lần thứ ba:" Mọi người bắt đầu nào, đừng làm khách," bạn nữ ngồi bên trái tôi cũng bắt đầu lên tiếng, tiện hỏi nên tôi.
"Tôi tên Lương Lương."
Ắt hẳn do tôi quá căng thẳng nên đã buột miệng nói ra cái tên này.
Nếu như bạn là bố mẹ hay bạn bè, hay người quen của tôi, bạn sẽ biết đó thực ra không phải tên tôi.
"Anh nói thật đấy à?" Giọng cô gái đầy hứng khởi:"Em là Noãn Noãn ( nghĩa là ấm áp), anh tên Lương Lương (nghĩa là mát mẻ). Trùng hợp thật đấy." Noãn Noãn cười, trở thành sinh viên đầu tiên khôi phục lại tính đàn hồi của cơ mặt.
"Các đồng chí, chúng ta tiến hành thôi."
Nói xong, tay phải Noãn Noãn cầm lấy đũa, xoay ngược đầu đũa xuống, gõ nhẹn lên bàn hai tiếng, rồi lại xoay đầu đũa lên, các ngón tay chỉnh lại tư thế cầm cho ngay ngắn, sau đó vươn tay về đĩa thức ăn.
Động tác của Noãn Noãn rất nhẹn, hơn nữa lại rất chậm, có ý bảo mọi người làm theo.
Như binh sĩ đang nấp trong chiến hào bỗng thấy chỉ huy đứng thẳng dậy khảng khái hét lớn:" Xung phong!", mọi người răm rắp bò khỏi chiến hào, cầm lấy đũa.
Noãn Noãn gắp thức ăn về phía bát mình rồi đột ngột dừng lại, quay phải 90 độ đặt vào bát tôi.
"Món này làm chính cống đấy, anh nếm thử xem," em nói.
"Đây là?" tôi hỏi.
"Món Hồ Bắc."
Thực ra tôi chỉ muốn hỏi thứ đỏ đỏ mềm mềm này là thứ gì, nhưng em đã trả lời vậy, tôi đành hỏi tiếp:"Sao em biết đây là món Hồ Bắc?"
"Câu hỏi của anh thật sâu sắc," em trả lời. "Bảnh hiệu ngoài nhà hàng có ghi mà."
Xem ra tôi đã hỏi một câu ngớ ngẩn, nếu như lại hỏi tiếp thì nên hỏi một câu thật sự sâu sắc mới được.
Tôi biết "chính cống" theo sách nói Đài Loan là "chính hiệu, chuẩn", có quá nhiều chương trình nghệ thuật ẩm thực của Đài Loan đã nhắc đến rồi.
Vì vậy tôi không thể hỏi cách nói "món ăn rất chính cống" liệu có phải vì thời kháng chiến chống Nhật, để tránh máy bau Nhật ném bom, dân ta chỉ có thể nấu ăn dưới hào cống, thành ra trong thức ăn có một hương vị đặc trưng bất biến tượng trưng cho tinh thần chiến đấu quật cường, vượt mọi gian khổ của dân tộc, dẫn đến sau này người ta bèn dùng "chính cống " để khen thức ăn làm rất chuẩn hay không?
Nghĩ hồi lâu, tôi mới mở miệng hỏi một câu uyên thâm:
"Em là người Hồ Bắc à?"
"Không phải." Noãn Noãn lắc đầu. "Em ở Hắc Long Giang, đến Bắc Kinh học đại học."
" Thảo nào." Tôi gật gật đầu.
"Sao cơ?"
" Em nói em là người Hắc Long Giang phải không?"
"Vâng."
"Đây là Bắc Kinh, chắc thuộc tỉnh Hà Bắc, không sai chứ?"
"Đúng thế."
"Em chưa từng tới Hồ Bắc phải không?"
"Chưa."
"Thế sao em biết món Hồ Bắc ở đây làm rất chuẩn, à không, rất chính cống chứ?"
"Câu hỏi này uyên thâm đấy." Noãn Noãn ngừng đũa, do dự một lúc mới nói:" Em nghe người khác nói."
"Hả?"
"Dù gì các anh cũng từ Đài Loan tới, em coi như là chủ nhà, cũng phải giả vờ hiểu biết tí chứ." Noãn Noãn nói xong, nhoẻn miệng cười.
Cảm giác căng thẳng trong tôi bất giác tiêu tan ít nhiều.


( còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
Đăng lúc 29-5-2013 22:14:25 | Chỉ xem của tác giả
Của bác Thái ah, mình phải hóng hớt mới được

Bạn BôBe ơi bạn cho cách dòng cho dễ đọc đi, mấy đoạn văn cứ dính vào nhau mỏi mắt lắm {:439:}

Cảm ơn bạn đã post truyện nhé, à bạn đã đọc hết chưa? SE OE hay HE thế? Truyện của bác ý mình cứ phải hỏi trc cho chắc ăn {:399:}

Bình luận

Cảm ơn b đã góp ý:X. m mua lâu rồi nhưng vẫn chưa đọc :(  Đăng lúc 30-5-2013 10:22 AM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 30-5-2013 11:05:59 | Chỉ xem của tác giả
        Nhìn quanh bốn phía, da mặt đám sinh viên đã khôi phục lại tính đàn hồi, giữa lúc múc canh, gắp thức ăn ai nấy cũng đã biết gật đầu mỉm cười với nhau.
        "Đúng rồi, em họ Tầm," Noãn Noãn lại nói. "Còn anh?"
        "Anh họ Thái."
        "Thái Lương Lương?" Noãn Noãn đột nhiên bật cười thành tiếng. "Lương Lương nghe rất hay, nhưng đi cùng họ Thái thì."
        "Tên có kêu thế nào thì đi cùng họ Thái cũng mất hay."
        "Cũng không đến nỗi ấy."
        "Thật không?"

        "Đồ ăn nguội rồi là không ngon đâu, ăn nhanh cho nóng. Tên của anh rất có triết lý đấy." Noãn Noãn cuời nói, "Bố mẹ anh chắc mong anh biết nắm bắt cơ hội, nỗ lực tiến lên."
        "Vậy tên em là Noãn Noãn có hàm ý gì đặc biệt không?" tôi hỏi.
        "Bố em nghĩ trời lạnh mà gọi Noãn Noãn, Noãn Noãn như vậy có lẽ sẽ không lạnh nữa," em trả lời.
        "Tên của em rất hay, không quá uyên thâm lại có ý nghĩa."
        "Cảm ơn." Noãn Noãn cười.

        Tôi bắt đầu thấy bất an, bởi cái tên Lương Lương của tôi chỉ là giả.
        Không ngờ hai chữ "Lương Lương" vừa thốt khỏi miệng, tiếp sau đã nhiều diễn biến thế này.
        Mấy lần đã định nói với Noãn Noãn tên tôi không phải là Lương Lương, nhưng đều không nắm bắt được thời cơ tốt để thể hiện lương tâm.
        "Sao lại dừng đũa thế?" Noãn Noãn quay sang hỏi tôi. "Mau ăn đi."

        Ăn đến nửa bữa, rất nhiều người đã bắt đầu cười đùa nói chuyện. Không khí khác hẳn với khi vừa ngồi xuống bàn ăn.
        Noãn Noãn và tôi cũng tán đến mấy chuyện như Hắc Long GIang lanh lắm nhỉ, Đài Loan nóng lắm nhỉ.
        Nói mãi nói mãi lại đến chủ đề địa danh, tôi nói ở Đài Loan có mấy địa danh như Củ Tỏi, Thái Bảo, Mặt Nước.
        "Quê anh còn tên là Túi Vải," tôi nói.
        "Chính là "túi vải" dùng để đựng đồ đấy á?" Noãn Noãn hỏi.
        "Chính xác."
        "Cái tên này hay thật đấy."

        "Ở Đài Loan cũng có một nơi gọi là Noãn Noãn đấy," tôi nói, giọng như thể đột nhiên nhớ ra chuyện này.
        "Anh nói thật đấy à?"
        "Lần này tuyệt đối là thật, không lừa em đâu."
        "Lần này? Lừa?"
        "Không có gì." Tôi vờ như không thấy ánh mắt nghi ngờ của Noãn Noãn, vội vàng nói tiếp: "Noãn Noãn ở Cơ Long, có sông có núi, là một nơi rất đẹp, rất yên tĩnh."
        "Anh đến đó chưa?"
        "Anh cũng chưa đến." Tôi cười cười. "Lần này tới lượt anh giả vờ hiểu biết rồi."
       
        "Sao lại có nơi đặt cái tên ôn nhã hiền thục thế chứ?"
        "Nói hay lắm. Noãn Noãn quả thựca là một ci tên ôn nhã hiền thục."
        "Đa tạ quá khen." Noãn Noãn cười.
        "Đừng khách sáo. Anh chỉ có gì nói nấy thôi."
        "Có thể kể thêm cho em về nơi tên Noãn Noãn ấy không?"

        Tôi nghĩ một lúc rồi nói: "Theo như anh biết, hồi nhà Thanh đánh Pháp, quân Thanh cùng dân binh từng đóng ở Noãn Noãn giao chiến với quân Pháp qua sông Cơ Long, ngăn quân Pháp vượt sông tấn công thành Đài Bắc."
        "Về sau thế nào?"
        "Quân Pháp làm thế nào cũng không vượt nổi sông Cơ Long. Sau đó phải ký hoà ước với nhà Thanh, rút khỏi Đài Loan."
        "Còn có cả quãng lịch sử thế hả?"
        "Ừ." Tôi gật đầu. "Cuối đời Mãn Thanh khó khăn lắm mới có trận không bị thua, đây là một trong số đó."
        Noãn Noãn cũng gật đầu, rồi trầm ngâm suy tư.

        "Em thật sự muốn tới thăm nơi có cái tên ấm áp ấy," mấy phút sau Noãn Noãn lại lên tiếng.
        "Hay đấy."
        "Nơi đó thế nào nhỉ? Em rất muốn tới."
        "Rất hay."
        "Em nói thật đấy."
        "Anh biết."
        "Vậy hẹn thế nhé."
        "Hả? Anh đã nhận lời gì à?"
        "Tóm lại," Noãn Noãn cười bí hiểm, "em nhất định phải tới Noãn Noãn xem thế nào."
        Tôi nhìn em, không đáp lời, cố hiểu cảm giác muốn tới Noãn Noãn của em.
        Tôi biết Noãn Noãn chắc không phải loại con gái cá tính mạnh kiểu anh không đưa em đi, em chết cho anh xem; càng không phải loại con gái hung bạo kiểu anh không đưa em đi, anh chết chắc cho xem.
        Có lẽ em nói hẹn chỉ là tự hẹn với chính mình mà thôi.

        Sau bữa cơm, chúng tôi tới ký túc xá của một trường đại học, bảy đêm tới đều sẽ trải qua ở đây.
        Bữa cơm kéo dài hơn một tiếng so với dự kiến, lại xét đến sinh viên Đài Loan vừa xuống máy bay nên màn tự giới thiệu theo kế hoạch đựơc bỏ qua, mọi người chia làm sáu nhóm, ai về phòng nấy nghỉ ngơi.
        Vụ hủy bỏ tiết mục tự giới thiệu làm tôi nhẹ cả người, bởi tôi không thể nào giới thiệu tên mình là Thái Lương Lương trước mặt mọi người được.
        Bốn người một phòng, nam nữa ở riêng (đây là chuyện đương nhiên chẳng thể làm khác được).
        Thế nhưng khi phân phòng lại diễn ra một vụ hỗn loạn nhỏ.

        Họ tên sinh viên Đài Loan đều gồm ba chữ.
        Lấy tôi làm ví dụ, từ cấp Một, cấp Hai, cấp Ba, rồi lên đại học, viện nghiên cứu, tôi chưa từng gặp ai có tên hai chữ bao giờ.
        Nhưng họ tên của sinh viên Bắc Kinh lại hầu hết là hai chữ.
        Tên coi trai còn dễ phân biệt, có mấy tên con gái rất trung tính, thậm chí còn hệt như tên con trai.
        Có cô sinh viên Đài Loan thấy bạn cùng phòng với mình tên là Nhạc Phong với Vương Khắc thì kinh ngạc nên mới dễn đến hỗn loạn.

        "Cậu có tưởng tượng được một cô em đoan trang dịu dàng tên là Nhạc Phong không?" Cô gái tên Nhạc Phong nói giọng đau buồn.
        Còn Vương Khắc, đây hoá ra lại là một cô bé thanh tú thân hình nhỏ nhắn.
        Nhạc Phong và Vương Khắc, đều là những cái tên thâm thúy khiến người ta không sao đoán nổi.

        Đám sinh viên bắt đầu nghiên cứu tên nhau, có người nói tên ba chữ nghe hay, tên hai chữ dễ nhớ; lại có người nói tên hai chữ nếu vào phải họ đông nữa thì rất dễ trùng tên.
        Bàn tán mãi đến quên cả về phòng, các thầy còn phải tới nhắc nhở mau chóng nghỉ ngơi mai còn dậy sớm.
        Trên đường về phòng vừa hay tôi lại gặp Noãn Noãn. "Lương Lương, mai gặp nhé," Noãn Noãn vừa xách túi vừa nói.
        Mấy người bên cạnh nhìn tôi hồ nghi, tôi thầm nghĩ, chuyện tên Lương Lương sớm muộn cũng bị bại lộ thôi.

        Bạn cùng phòng với tôi một người là cậu em khoá dưới, hai người còn lại đều là sinh viên Bắc Kinh, tên Tử Trì và Cao Lượng.
        Hai cái tên Tử Trì và Cao Lượng thì không thâm thúy rồi.
        Bởi tôi lớn hơn họ khoảng hai tuổi nên họ gọi tôi là Anh Thái, cậu em kia cũng gọi theo như vậy.
        Bốn người chúng tôi ngồi trong phòng tán phét, tiếng Bắc Kinh gọi là "chém gió".
        Tôi canh cánh chuyện Lương Lương trong lòng, lại thấy mệt nên cũng chỉ tán đôi ba câu được chăng.

        Nhắm mắt lại, tôi tự nói với mình đây là Bắc Kinh, tôi đang ở dưới trời Bắc Kinh, tôi đã tới Bắc Kinh rồi!
        Để giữ lại ấn tượng đẹp về lần đầu gặp mặt với Bắc Kinh, nhất định tôi không được mất ngủ.
        Nhưng có lẽ tôi chỉ lo hão, bởi chẳng bao lâu sau tôi đã mơ màng ngủ thiếp đi.

Hết chương 1
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
Đăng lúc 11-6-2013 08:34:02 | Chỉ xem của tác giả
Xin chào bạn!

Trước tiên, cám ơn sự đóng góp của bạn dành cho box.

Hiện nay, box đang tiến hành sắp xếp lại để gọn gàng hơn.

Trong quá trình, bọn mình thấy chương cuối cùng được post của "Chỉ gọi tên em" là ngày 31/5/2013. Bạn đã ngừng hơn 10 ngày và không hề có bất cứ thông báo nào đến độc giả.

Bạn cho bọn mình tiến độ post truyện.

5 ngày sau thông báo này, nếu vẫn không có chương mới/thông báo mới hoặc tiến độ post truyện, bọn mình sẽ tiến hành các bạn pháp xử lý thích hợp.

Tạm thời bọn mình sẽ tô sang màu đen để phân biệt, khi nào thread có chương mới thì bọn mình sẽ tô lại màu xanh.

Mong bạn hiểu và thông cảm!

Thân mến!

Mod
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
Đăng lúc 17-6-2013 17:24:40 | Chỉ xem của tác giả
MOD cho mình type tiếp truyện này nhé :D tranh thủ kiếm xèng, hehe
Cơ mà đọc đoạn đầu của truyện cũng thấy có vẻ lạ lạ, hấp dẫn, nên mình sẽ type nốt các chương còn lại
Thanks MOD nha ^^

Bình luận

Hic, mình ko tìm được nguồn repost, các nguồn đều chặn hết, nên h mình sẽ type, truyện cũng ngắn ^^  Đăng lúc 17-6-2013 09:29 PM
tớ repost  Đăng lúc 17-6-2013 08:54 PM
Bạn type hay là repost thế bạn? Vì chủ thread này đăng kí type, bạn cho tớ biết để tớ còn đặt màu :)  Đăng lúc 17-6-2013 06:22 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
Đăng lúc 17-6-2013 22:37:51 | Chỉ xem của tác giả
Bổ sung chú thích cho chương 1 :
[1] Nãi Nãi : nghĩa là “ấm áp”
[2] Lương Lương: nghĩa là “mát mẻ”


CHƯƠNG 2



Sáng ngày hôm sau, dùng xong bữa sáng, mọi người lên đường tới Tử Cấm Thành.

Mấy sinh viên Bắc Kinh cùng đi đều là người tỉnh ngoài đến Bắc Kinh học, nhưng hầu như đều đã tới Tử Cấm Thành nên rất quen thuộc với nơi này.

Giáo viên chỉ nói giờ và địa điểm tập trung rồi rút lui để sinh viên Bắc Kinh dẫn sinh viên Đài Loan đi thăm quan.

Vừa bước vào Ngọ Môn, phản ứng đầu tiên của tất cả các sinh viên đều là phấn khích bắt chước theo mấy vị hoàng đế trong phim tức giận hét lớn: Lôi ra Ngọ Môn chém đầu!

Tuy cũng có người giải thích rằng lôi ra Ngọ Môn chỉ có ý không muốn làm ô uế Tử Cấm Thành, thực tế pháp trường nằm ở chỗ khác kia.

Thế nhưng không thể phủ nhận, ấn tượng Ngọ Môn để lại trong mọi người hầu như chỉ là chém đầu mà thôi.

Nếu như là tôi, phản ứng đầu tiên của tôi là:

Ý? Sao chưa qua Tảo* Môn  đã tới Ngọ Môn  rồi? Vậy cánh cổng tiếp theo liệu có phải Vãn Môn không?

* Tảo – Ngọ - Vãn: Sáng – Trưa – Tối

Nhưng tôi vốn đã chẳng phải người bình thường, vậy nên không cần để ý đến tôi làm gì.

“Lương Lương, hóa ra anh ở đây.” Noãn Noãn bất ngờ chạy đến gần tôi. “Mau! Em nhìn thấy nhà anh rồi!”

“Gì cơ?” Tuy tôi rất kinh ngạc nhưng vẫn chạy theo sau Noãn Noãn.

Chạy được hơn ba chục bước, Noãn Noãn dừng lại, thở hổn hển đưa tay phải chỉ về phía trước: “Đến nhà anh rồi này.”

Theo hướng tay em, tôi thấy một người đàn ông trung niên đang cầm một túi vải màu xám trắng.

Tôi quay lại nhìn Noãn Noãn, tay phải em ôm lấy bụng, vẻ như cười đến đau cả ruột.

“Buồn cười lắm,” tôi nói.

“Đợi đã.” Noãn Noãn phì cười, cố lấy lại vẻ bình tĩnh, nhưng chưa bình tĩnh nổi một giây đã lại phá lên cười.

“Đợi đã đợi đã…” Xem ra Noãn Noãn hình như cũng không được bình thường cho lắm.

Tuy Noãn Noãn đã dần dần ngưng cười thành tiếng nhưng ánh mắt cười có lẽ khó lòng biến mất trong chốc lát.

Tôi nghĩ chắc giờ tâm trạng em rất vui, đây hẳn là thời cơ tốt để lương tâm tôi trỗi dậy.

Xuyên qua cầu Kim Thủy, chúng tôi như quan viên thời cổ lên triều, kẻ trước người sau thẳng hàng đi về hướng Điện Thái Hòa.

Đi mãi đi mãi, tôi hắng giọng nói: “Anh phải nói với em một chuyện.”

“Có gì anh cứ nói đi.”

“Thực ra tên anh không phải Lương Lương.”

“Sao?”

“Anh nói thật đấy, tên anh không phải Lương Lương.”

Ánh mắt cười của Noãn Noãn dần dần biến mất, thay vào đó là sự nghi hoặc khó hiểu, rồi là oán trách.

“Đến tên cũng lấy ra đùa, anh bệnh đấy à.”

“Sorry.”

“Nói tiếng Anh làm gì?”

“Trong tiếng Đài Loan, những lúc thế này thường nói xin lỗi, anh không biết ở Bắc Kinh có nói thế không.”

“Anh bệnh quá hóa đần à?” Noãn Noãn suýt nữa bật cười. “Đương nhiên là giống rồi!”

Tôi cũng thấy mình hơi ngốc, ngờ nghệch cười vài tiếng.

“Ê, anh vẫn chưa nói với em sao anh lại nói tên là Lương Lương?”

“Vừa nghe thấy Noãn Noãn, phản ứng đầu tiên của anh là Lương Lương.”

“Hử?”

“Vì đông ấm, hạ mát.”

“Đồng chí này,” ánh mắt Noãn Noãn rõ vẻ nghi hoặc, “suy nghĩ của anh sâu sắc đấy.”

“Nếu như em hỏi anh em trai AB là ai?” Tôi thử giải thích suy nghĩ sâu sắc của tôi. “Anh sẽ trả lời là CD”

“Hở?” Ánh mắt Noãn Noãn càng ngờ vực.

“Cũng như khi anh vừa nghe thấy cái tên Trần Thủy Biển *, trực giác liền nghĩ ngay rằng nhà ông ta nhất định có năm anh em trai.”

* Trần Thủy Biển: Luật sư, nhân vật chính trị Đài Loan, từng giữ chức Chủ tịch Đảng Dân chủ Tiến bộ khóa 10-11, thị trưởng thành phố Đài Bắc. 12/2010 bị cáo buộc tội tham ô, phạt 17 năm 6 tháng tù, đến 19/1/2011 được tuyên bố vô tội.
“Năm anh em trai?”

“Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Trần Kim Biển, Trần Mộc Biển, Trần Thủy Biển, Trần Hỏa Biển, Trần Thổ Biển,” tôi nói. “Nhà họ xếp thứ tự theo Ngũ hành, Trần Thủy Biển là anh ba.”

“Nói như anh, Đạt Phân Kỳ * là anh cả hơn nữa còn có một em trai tên là Đạt Phân Quái à”

“Đạt Phân Kỳ là ai ?”

“Anh không biết hả?” Noãn Noãn trợn tròn mắt. “Chính là người vẽ bức Nàng Mona Lisa ấy.”

* Đạt Phân Kỳ : Leonardo da Vinci

“À,” tôi gật gù, “dịch sang tiếng Đài Loan gọi là Đạt Văn Tây, ông ấy không phải anh cả mà là anh hai, vì Đạt Văn Đông, Đạt Văn Tây, Đạt Văn Nam, Đạt Văn Bắc.”

“Chỉ có cách dịch khác nhau mà anh em thiếu mất tận mấy người?”

“Xem ra là thế đấy.”

Noãn Noãn không hỏi nữa, chậm rãi bước về phía trước. Tôi đi phía sau, trong lòng thấp thỏm không yên.

Lúc sau, Noãn Noãn quay đầu lại nói: “Đừng buồn nữa. Em kể chuyện cười cho anh nghe.”

“Ừ.”
“Trên xe buýt chật kín người, có một kiều nữ vô tình giẫm phải chân một anh chàng, cô gái quay đầu chậm rãi nói: Ôi, anh, em sor¬ry anh. Kết quả anh đoán xem chàng trai đó nói gì?”

“Chàng trai đó nói gì?”

“Chàng trai trợn trừng mắt nói: ‘Gì? Cô sor¬ry tôi? Tôi mới sor¬ry cả nhà cô ấy!”

Kể xong Noãn Noãn bật cười, tôi cũng cười theo mấy tiếng.

Bởi điệu bộ Noãn Noãn trước giả làm kiều nữ yêu kiều thướt tha, sau giả làm anh chàng cộc cằn thô lỗ rất sinh động thú vị.

“Anh cho em nói một câu, em sẽ bỏ qua cho anh,” Noãn Noãn ngừng cười nói.

“Không vấn đề gì.”

“Vừa rồi anh nói sor¬ry…” Noãn Noãn cố nín cười. “Em sor¬ry cả nhà anh.”

“Rất hân hạnh.”

“Thế là hết nợ nhé,” Noãn Noãn cười nói, “nhưng về sau em vẫn gọi anh là Lương Lương.”

“Được thôi.”

“Vậy cứ thế đi, về sau biệt danh của anh sẽ là Lương Lương

Tôi gật đầu cười, cùng em bước về phía trước.

Tới khoảng sân rộng trước Điện Thái Hòa, có bạn vẫy tay về phía chúng tôi, hét: “Lại đây làm kiểu ảnh!” Tôi và Noãn Noãn vội chạy lại, dưới Điện Thái Hòa đã có hơn chục sinh viên xếp thành hai hàng.

Chuẩn bị chụp ảnh, tôi giơ ngón trỏ và ngón giữa lên làm hình chữ V, Noãn Noãn rất tò mò.

“Sinh viên Đài Loan quen làm chữ V cho cool, hoặc chếch ngón cái và ngón trỏ để dưới cằm, hoặc dùng ngón tay đặt lên má, ngón nào cũng được, gọi là làm hàng.”

Tôi vừa nói xong đã nghe thấy tiếng cậu bạn chụp ảnh hét “Kon¬ica”, giữa tiếng Kon¬ica, một tia sáng lóe lên.

Hỏi Noãn Noãn vì sao phải nói Kon¬ica?

Câu trả lời cũng như người Đài Loan hay nói chữ C trong tiếng Anh, đều là để nhe răng ra cười mà thôi.

Tôi và Noãn Noãn bước vào Điện Thái Hòa, đây là nơi hoàng đế đăng cơ, phải xem cho kĩ mới được.

Trong điện, sàn được lát bằng gạch vàng, có sáu cột trụ đường kính một mét, bề mặt chạm khắc họa tiết mây rồng thếp vàng.

Long kỷ và bình phong được đặt chính giữa sáu chiếc cột kim long, ngự trên đài cơ cao hai mét màu vàng.

Nhìn chiếc long kỷ thếp vàng, tôi bắt đầu đếm xem trên long kỷ có thật có chín con rồng hay không, đếm mãi đếm mãi đến thần người ra.

“Nhớ lại chuyện kiếp trước hả?” Noãn Noãn hỏi đùa.

“Không.” Tôi sực tỉnh, đáp: “Kiếp trước anh ở Ngọ Môn.”

“Cái anh này lạ thật đấy.” Noãn Noãn cười nói.

Sau khi ra khỏi Điện Thái Hòa, tôi vẫn đi dạo cùng Noãn Noãn.

Cảm giác phương hướng của Noãn Noãn hình như không được tốt, lại không thích nhìn biển chỉ dẫn bên đường nên thường vòng qua vòng lại một chỗ mấy lần.

Người khác đi từ Cung Càn Thanh sang Điện Dưỡng Tâm, chúng tôi lại đi từ Điện Dưỡng Tâm sang Cung Càn Thanh.

“Giời ạ, không đi lạc được đâu, anh yên tâm,” em luôn nói thế.

Trên đường đi Noãn Noãn hỏi về mọi thứ ở Đài Loan, cũng hỏi cả gia cảnh nhà tôi.

Tôi nói tôi là anh hai trong nhà, trên có một chị gái, dưới có một em gái.

“Có anh chị em chắc phải vui lắm. Không như em, là con một trong nhà,” Noãn Noãn nói.

“Nhưng anh toàn bị ăn đòn thôi.”

“Sao lại thế?”

“Lúc mấy chị em cãi nhau, bố anh khi thì nói lớn phải nhường bé, anh là đứa lớn nên bị đánh; có khi bố anh lại nói bé phải nghe lớn, anh lại thành đứa bé nên bị đánh. Vậy nên toàn bị ăn đòn.”

“Thật thế á?”

Tôi cười hì hì, nói tiếp:

“Người ta nói làm anh cả có thể bồi dưỡng phong thái lãnh đạo, anh cả khá ngang ngạnh, nhưng cũng chính ngang ngạnh nên mới thích hợp trở thành người dẫn đầu. Còn về những loại xếp giữa giữa như anh, vì hay bị đánh nênâu ngày nhìn thấy gậy là biết nói: đánh đi đánh đi, đánh chết con đi, do vậy mà học được tính độ lượng.”

“Độ lượng?” Noãn Noãn không đồng tình. “Thế gọi là chây ỳ.”

“Thế nhưng cũng có những người xếp giữa giữa rất xảo quyệt, đánh thằng anh thì họ làm thằng em, đánh thằng em thì họ làm thằng anh. Những người đó sau này lớn lên sẽ trở thành những nhân vật lợi hại.”

“Thật không?”

“Ví dụ như Trần Thủy Biển đứng thứ ba trong năm anh em trai chính là một nhân vật lợi hại biến đổi khôn lường.”

“Toàn nói bừa.” Một lúc sau, Noãn Noãn mới thốt ra câu này.

“Anh không biết em còn dẫn anh đi mấy vòng nữa mới ra khỏi Tử Cấm Thành, không nói bừa thì chán lắm.”

“Rồi, đến Ngự Hoa Viên rồi đây.” Em dừng bước chỉ về phía trước. “Qua Ngự Hoa Viên là đến Thần Vũ Môn, ra khỏi Thần Vũ Môn là ra ngoài Tử Cấm Thành rồi.”

Từ lúc bước vào Tử Cấm Thành đến giờ, cứ ngỡ thế giới đâu cũng đều cao lớn, vuông vức, rộng rãi, không ngờ Ngự Hoa Viên lại lung linh xinh xắn, thanh tịnh tú lệ thế này.

Trong vườn đầy những ngọn giả sơn, cây cổ thụ cao lớn, kỳ hoa dị thảo và những lầu gác trang nhã, dưới chân còn có đường đá quanh co uốn lượn.

Tôi và Noãn Noãn dạo qua những cây hoa, lầu gác, giả sơn trong Ngự Hoa Viên, còn thấy cả cây liên lý *.

* Hai cây có cành, nhánh hợp sinh gọi là cây liên lý.

Cây do hai nhánh chính của hai cây bách cuốn lấy mà thành, như thể một đôi tình nhân âu yếm ôm chặt lấy nhau.

Một nhóm người đang đứng dưới cây liên lý chụp ảnh, mà lại còn cứ từng đôi một nam một nữ.

Noãn Noãn nói cây liên lý này đã hơn 400 tuổi, tượng trưng cho tình yêu chân thành thuần khiết.
“Đẹp thật đấy,” ngắm nhìn chăm chú cây liên lý một lúc sau, Noãn Noãn mới nói, “phải không?”

“Đẹp thì đẹp đấy, nhưng chắc cô đơn lắm.”

“Cô đơn?”

“Vì trong hoàng cung này nó đâu chứng kiến nổi một tình yêu chân thành, thuần khiết, vậy nên cứ sống mãi vậy đó.”

“Hả?”

“Nếu như có một ngày, các cặp nam nữ trên đời đều có thể đối với nhau chân thành, thuần khiết, thì còn cần gì cây liên lý nhắc nhở chúng ta sự chân thành, thuần khiết trong tình yêu nữa? Đến lúc đó, cây liên lý có thể ngậm cười héo khô được rồi.”

“Anh ấm đầu đấy à?” Noãn Noãn chăm chú quan sát tôi. “Đợi lát em mua kem cho anh.”

“…” Phù, đúng là nóng thật.

Tháng Bảy ở Bắc Kinh khô nóng hệt ở Đài Loan, huống hồ lại đã đi bộ cả một buổi sáng.

Qua Thần Vũ Môn, tôi lại đi thẳng tiếp, Noãn Noãn ở phía sau gọi tôi: “Lương Lương! Anh đi đâu đấy? Định học theo Sùng Trinh đấy à?”

“Sùng Trinh?” Tôi dừng lại, quay đầu phát hiện Noãn Noãn bước khỏi Thần Vũ Môn liền rẽ phải.

“Khi Lý Tự Thành tấn công vào Bắc Kinh, hoàng đế Sùng Trinh cũng như anh đi thẳng đến Cảnh Sơn đối diện treo cổ tự vẫn.” Noãn Noãn cười, đưa tay vẫy tôi. “Mau qua đây, đừng nghĩ quẩn.”

“Nguy hiểm thật,” tôi quay lại cạnh rồi nói.

Ở đây có sông Hộ Thành rộng hơn 50 mét, chúng tôi tìm một chỗ ngồi nghỉ dưới bóng cây xanh mướt bên sông.

Noãn Noãn mua hai que kem, đưa cho tôi một que.

Hầu hết sinh viên đều đã đi ra, túm năm tụm ba tán chuyện, chụp ảnh hoặc uống nước giải khát.

Tôi và Noãn Noãn vừa ăn kem vừa lau mồ hôi, em nói hình như tôi đã trở về trạng thái bình thường, tôi nói điều đó chứng tỏ là không bình thường.

Tôi lại kể với Noãn Noãn, ở Đài Loan có một nơi tên là “Thiên Lãnh”, kem que ở đó cực kỳ ngon.
“Kem que chính là kem cây mà bọn em thường nói ấy.” Tôi giải thích thêm.

“Em hiểu mà.” Noãn Noãn mỉm cười, nụ cười có chút kỳ quái.

“Hì, thế lúc nào thì dẫn em đi thăm chỗ Noãn Noãn?” Noãn Noãn hỏi.

Hóa ra tôi vừa nói đến Thiên Lãnh lại làm Noãn Noãn nhớ ngay đến Noãn Noãn. Tôi nghĩ một lúc rồi nói: “Có lẽ vào mùa đông *.”

* Cũng là tên bài hát nổi tiếng năm 1988 của ca sĩ Tề Tần.


“Bài này mấy năm trước nổi lắm, gần thành Quốc ca đấy.”

Tôi đang định đáp trả thì Từ Trì đã đi về phía tôi hét lớn: “Anh Thái!”

Từ Trì tay cầm máy ảnh kỹ thuật số, nói: “Chụp cho hai người một kiểu nào.”

Tôi và Noãn Noãn lấy bức tường thành sau lưng làm nền, hai bên giữ một khoảng cách đến gió thổi gấu áo cũng chỉ vừa may chạm phải nhau.

Lúc chuẩn bị chụp,  tôi theo thói quen làm hai dấu chữ V, Noãn Noãn nói tôi làm hàng, tôi bảo tôi già rồi đâu dám.

Từ Trì hét một, hai, ba, Kon¬ica, Noãn Noãn cũng nói theo “Kon¬ica”.

Tôi nhắm đúng lúc ấy hét: Ko¬dak.

“Anh nói gì đấy.” Noãn Noãn phì cười khì khì.

Từ Trì nhanh tay bấm máy, hình như đã may mắn bắt được khoảnh khắc ấy.

Noãn Noãn vội vàng chạy lại, xem xong ảnh trong máy, em căng thẳng nói: “Không được! Cậu phải xóa cái ảnh này đi.”

Tôi cũng chạy lại xem cảnh Noãn Noãn phì cười lúc nãy thế nào, nụ cười của Noãn Noãn rất rạng rỡ.

Tôi đột nhiên nhớ đến từ “kiều” mới nghe tối qua.

Người Bắc Kinh dùng chữ “kiều” xem ra cũng có lý do, đã gọi là kiều nữ, chắc chắn phải rạng rỡ kiều diễm.

“Tớ cho cậu một cây kem, cậu xóa nó đi,” Noãn Noãn nói với Từ Trì.

“Anh cho chú hai que, không được xóa,” tôi cũng nói với Từ Trì.

“Chúng ta là anh em.” Từ Trì vỗ vỗ vai tôi, “Em có chết cũng không xóa.”

Tôi rưng rưng nước mắt, nắm chặt lấy hai tay cậu ta, suýt bật khóc.

“Sao anh không cho xóa?” Giọng Noãn Noãn có chút bực bội. “Miệng em mở rộng quá, không đoan trang.”

“Sao thế được? Đấy là nụ cười tự nhiên, rất thân thiện, tóm lại chỉ có một chữ đẹp”

“Lại nói bừa nữa.”

“Em xem.” Tôi quay sang đối diện với em. “Mắt anh còn mở thao láo thế này, bừa là bừa thế nào.”

Noãn Noãn đang định phản pháo thì nghe tiếng các thầy giục mọi người tập trung.

Sinh viên tề tựu đông đủ xong cùng chụp một bức ảnh tập thể, rồi tới nhà hàng gần đó dùng cơm.

Phân nhóm quả có tác dụng, lúc ăn cơm cũng phân theo nhóm mà ngồi, không phải do dự hồ nghi gì nữa.

Tôi và Noãn Noãn cùng một nhóm, các bạn cùng bàn đại để cũng quen biết ít nhiều nên bữa ăn trôi qua rất suôn sẻ.

Bữa này có sủi cảo, mì vằn thắn, trời nóng nên tôi không có hứng ăn lắm, cũng không ăn được nhiều.

Ăn xong mọi người muốn đi dạo Bắc Hải, Bắc Hải là vườn Ngự Uyển của hoàng gia, nằm ngay phía tây bắc của Tử Cấm Thành.

Mạn phía tây của Tiền Môn có một tòa thành tròn, trong Điện Thừa Quang trên thành có thờ một bức tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đẽo bằng bạch ngọc cao gần một mét rưỡi tọa trên khám thờ Phật bằng gỗ khắc rồng mặt quay về hướng Bắc.

Tượng Phật ngọc khiết bạch vô song, phát ra những ánh hào quang dịu nhẹ, chỉ đáng tiếc bên cánh tay trái bức tượng có một vét dao chém, là dấu tích Liên quân tám nước để lại.

Tôi đoán do tám nước muốn chiếm Phật ngọc, định xẻ bức tượng ra làm tám nhưng không thành.

Có thể thấy Phật ngọc là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ, có thể khiến người ta trước cảnh binh đao máu lửa mà vẫn bình tĩnh suy xét đến phân chia công bằng.

Điện Thừa Quang trước có một đình nghỉ lát ngói lưu ly xanh, trên đài hoa sen bằng đá trong đình bày một chiếc vò ngọc hình bầu dục.

Vò ngọc màu lục thẫm có vân trắng, cao bảy mươi phân, chu vi chừng năm mét, trông như một cái bồn tắm.

Thầy Lý ở Bắc Kinh nói chiếc vò ngọc này là sau khi Nguyên Thế Tố * tiến vào Bắc Kinh, mở đại tiệc quân thần thưởng tướng sĩ, sai thợ lựa cả phiến ngọc thạch rồi tỉ mẩn đẽo khắc làm thành vò uống rượu, có thể chứa hơn ba mươi lít rượu.

* Nguyên Thế Tố: Hốt Tất Liệt

Vân trắng trên ngọc tạo thành những con sóng hung hãn, cuộn trào chảy xiết, những con rồng biển nhe nanh giơ vuốt vươn mình trên lớp sóng biển; cũng có cả các loài động vật biến thể có vảy như lợn, ngựa, tê giác, hệt như quỷ thần hình thú dưới Long cung trong truyền thuyết.

Toàn bộ phong cách điêu khắc thể hiện rõ khí phách hào phóng, dũng mãnh của dân tộc du mục.

“Càn Long khi còn tại vị cũng cho gọt giũa lại chiếc vò ngọc này bốn lần, do cách chế tác và phong cách giũa ngọc đời Nguyên, Thanh khác nhau, nên có thể phân biệt ra những điểm khác biệt đã từng qua gọt giũa,” thầy Lý nói. “Các bạn có nhìn ra không?”

Mọi người chăm chú quan sát chiếc vò ngọc, bàn tán sôi nổi.

Noãn Noãn hỏi tôi: “Anh nhìn ra không?”

“Đương nhiên.” Tôi gật đầu, “Vết đẽo của đời Nguyên khá tròn, còn vết của đời Thanh lại khá nông.”

“Thật á?” Noãn Noãn hơi cúi người, tập trung trí lực chăm chú nhìn vò ngọc.

“Nguyên tức là tròn vẹn, Thanh tức là nhẹ nông,” tôi nói. “Đây chính là thâm ý phía sau tên mỗi triều đại.”

Noãn Noãn ban đầu còn thần người ra, rồi lập tức đứng thẳng dậy, quay lại chỉ tôi nói: “Rõ ràng là không hiểu mà còn bày đặt.”

Tôi đương nhiên không hiểu, nếu như cứ chăm chú dị thường như vậy mà có thể nhìn ra điểm khác biệt thì tôi sớm đã đổi nghề làm nhà điêu khắc rồi.

Bắc Hải thực ra là hồ, giữa hồ có Đảo Ngọc, sau khi xuống thành tròn đi qua cầu Vĩnh An được lát bằng đá cẩm thạch trắng là tới.

Trên Đảo Ngọc có tòa Bạch Tháp, Noãn Noãn nói đó là biểu tượng của Bắc Hải, trong tháp còn có hai hạt xá lợi *.

* Hạt xá lợi là những hạt nhỏ có dạng viên tròn, oval, hoa sen, tượng Phật rất phong phú, hình thành sau khi thi thể của các vị cao tăng Phật giáo được hỏa táng. Theo quan điểm duy tâm và tâm linh của nhà Phật, xá lợi là kết kết quả của quá trình tu hành, khổ luyện và là kết quả của quá trình tu dưỡng đạo đức, chỉ xuất hiện ở những người có tấm lòng đại từ đại bi, luôn làm việc thiện.

Leo lên Bạch Tháp, phóng tầm mắt nhìn xa bốn phía, tầm nhìn rất đẹp, có thể thấy cả dải kiến trúc ở trung tâm Bắc Kinh.

Phía bắc Đảo Ngọc có thuyền, có thể chèo qua hồ tới bờ bắc, phần lớn các bạn đều chọn ngồi thuyền, nhưng tôi muốn đi từ cầu Trắc Sơn phía đông sang bờ đông rồi dạo quanh một vòng hồ.

Noãn Noãn nói không được, giờ trời đang nóng, nhỡ tôi say nắng váng đầu lại nói mấy câu ngớ ngẩn đến khi nam nữ trên đời đều đối với nhau chân thành thuần khiết thì Bắc Hải có thể ngậm cười mà cạn rồi.

“Xem bói bảo anh tháng này kỵ nước.” Tôi vẫn lắc đầu.

“Lại còn nói vớ vẩn nữa.” Noãn Noãn nói với người bên cạnh: “Các đồng chí, kéo anh ấy lên thuyền thôi!”

Hai cậu nam sinh người bên trái người bên phải kẹp tôi lên thuyền, Noãn Noãn cười đắc ý.

Lên bờ, một đoàn người tiến vào Cửu Long Bích.



(còn tiếp...)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
Đăng lúc 17-6-2013 22:44:09 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 2

(Tiếp)


Hai bên Cửu Long Bích đều có chín con rồng lớn, trên tường lát đá lưu ly bảy màu độc nhất vô nhị, tôi ở Đài Loan sớm đã nghe danh qua sách vở.

Tôi cố gọi Từ Trì, nhờ cậu ta giúp tôi chụp riêng một kiểu, và lại đứng trước Cửu Long Bích giơ tay chữ V.

“Rồng quẫy rồi kìa,” Noãn Noãn cười nói.

Tôi quay lại nhìn, gạch lưu ly rực rỡ sắc màu lại thêm ánh sáng phản chiếu đúng là khiến người ta có ảo giác rồng quẫy.

Rời Cửu Long Bích, qua Ngũ Long Đình, rồi lại men theo bờ tây tới Tây Môn, xe đã đợi bên ngoài Tây Môn.

Tôi lên xe, đánh một giấc thì về đến “trường ngủ” (tôi không có ý xúc phạm trường đại học này đâu).

Rửa mặt qua loa, lát sau có vị học giả đến giảng bài về Lịch sử và Văn hóa Cố Cung.

Tiết giảng rất thú vị, không phải viết lên bảng mà dùng pow¬er point chiếu rất nhiều ảnh.

Hết giờ, chúng tôi phải ở lại làm tiết mục tự giới thiệu bù cho tối qua.

Giáo viên cũng hy vọng sinh viên Đài Loan bày tỏ một chút cảm tưởng về Bắc Kinh hoặc Cố Cung.
Màn tự giới thiệu trên thực tế chỉ mang tính hình thức, bởi đám sinh viên đã quá quen với nhau rồi.
Điều khiến tôi đau đầu là cái gọi là “cảm tưởng”.
Tôi nhớ lại lúc ở sân bay đợi làm thủ tục lên máy bay rời Đài Loan, trong lòng hồ hởi phấn khởi không để đâu cho hết.
Trước khi chuyển tiếp từ Hồng Kông tới Bắc Kinh, nhìn hai chữ “Bắc Kinh” trên cửa máy bay, cảm giác phấn khởi trong tôi trở nên trong suốt, tuy vẫn tồn tại nhưng dường như quá mơ hồ.
Địa danh vẫn luôn khoan thai nằm trong sách giáo khoa của tôi từ tiểu học, trung học rồi đến cả đại học.

Tôi thường nghe nói về nó nhưng chưa từng tận mắt thấy diện mạo nó thế nào.

Tôi không thể tưởng tượng nổi sau khi tiếp xúc với Bắc Kinh, cảm xúc sẽ ra sao?

Điều này hơi giống như nghe bài hát của ai đấy cả đời, bỗng một ngày tự nhiên phải chạy lại bắt tay người ca sĩ ấy.

Bắt tay xong rồi, anh hỏi tôi cảm tưởng thế nào?

Tôi chỉ có thể nói xin đợi chút, tôi phải hỏi tay phải của tôi đã.

Lúc này tôi đứng trên bục giảng, giới thiệu xong tên mình lại phải nói ra cảm tưởng sau khi bắt tay.

Tôi có thể giơ tay phải ra bảo mọi người talk to this hand không?

Tôi chỉ có thể nói Cố Cung rất lớn, Bắc Kinh lại càng lớn, ngay đến sủi cảo và vằn thắn bữa trưa ăn cũng lớn hơn ở Đài Loan.

“Tóm lại, chỉ có một chữ LỚN,” tôi đi đến kết luận.

“Sau đó thì sao?” thầy Lý bên Bắc Kinh hỏi.

“Vì lớn, nên khiến người ta cảm thấy mình nhỏ bé.”

“Còn gì nữa?” thầy Trương bên Bắc Kinh hỏi.

“Ừm…” tôi nghĩ một lúc. “Nhỏ bé có thể giúp người ta học được cách khiêm tốn. Có điều em vốn dĩ đã là người khiêm tốn, mà lại năm phần khiêm, năm phần tốn, rất phù hợp với đạo Trung Dung. Đến Bắc Kinh, thăm xong Cố Cung, biến thành tám phần khiêm, hai phần tốn, có hơi khiêm nhường quá rồi. Em phải đi xem lại một số thứ nhỏ bé mới có thể chỉnh lại được “

Cả giảng đường yên lặng như trước giờ chiếu bóng.

“Em có thể đi xuống được chưa ạ?” đợi hồi lâu tôi mới hỏi.

Không đợi thầy giáo lên tiếng, toàn thể các bạn sinh viên đều vội vàng vỗ tay hoan nghênh tôi xuống khỏi bục giảng.

“Thế nào?” tôi ngồi về chỗ cũ, quay đầu hỏi Noãn Noãn. “Rất cảm động phải không?”

“Tóm lại, chỉ có một chữ bừa,” Noãn Noãn nói.

Tiết mục tự giới thiệu kiêm buổi phát biểu cảm tưởng kết thúc, liền đến bữa tối tôi mong đợi đã lâu.

Vì bữa trưa ăn ít nên buổi tối tôi rất mau đói.

Trước khi bước vào phòng ăn, tôi để tâm quan sát tấm biển hiệu, phát hiện một từ quan trọng: “Món Du”.

Hồi cấp Ba tôi học rất khá môn Địa lý, cũng biết Du là tên gọi tắt của Trùng Khánh, vậy nên đây hẳn là món Trùng Khánh.

Trùng Khánh ở tỉnh Tứ Xuyên, chắc cũng có nguồn gốc sâu xa với món Tứ Xuyên.

Món Tứ Xuyên…?

Tôi bắt đầu toát mồ hôi lạnh.

Tôi không giỏi ăn cay, hồi trước ở Đài Loan lần đầu đi ăn lẩu cay đã bị đau bụng mất ba ngày.

Trong ba ngày ấy, đi ra đi vào nhà vệ sinh, cuối cùng tôi cũng lĩnh ngộ ra thế nào là tí tách tí tách

“Ăn được cay không?” vừa bước vào phòng ăn, thầy Lý đã mỉm cười hỏi thăm.

Bạn đã thấy ai xé vé vào rạp rồi, phim sắp chiếu còn gào thét đòi ra chưa?

“Cũng được ạ,” tôi đành đáp.

“Vậy thì hôm nay ăn rất đã đấy,” thầy Lý lại nói.

Tôi không cầm được hai hàng nước mắt nam nhi.

Quả nhiên, món đầu tiên được bê lên đã khiến tôi liên tưởng ngay đến Biển Đỏ ở Is¬rael.

Nước canh đầy những mảng dầu đỏ trôi nổi, tôi đâu ngây thơ đến nỗi cho rằng đấy là nước cà chua.

“He he,” Noãn Noãn cười.

“Cười gì thế?” tôi hỏi.

“Nghe nói người giỏi ăn cay nhìn thấy đồ cay là mặt đỏ lên ngay; người không biết ăn cay thì mặt sẽ tái xanh.”

“Ý em là gì?”

“Không có gì,” Noãn Noãn nói. “Em thấy mặt anh rất đỏ, nên chỉ vui thay anh từ tận đáy lòng thôi.” Nói xong em lại cười khì khì mấy tiếng.

“Xin cho phép tiểu muội giới thiệu với huynh món này,” Noãn Noãn cười nói. “Đầu tiên thái cá tươi thành lát mỏng, múc dầu ớt cay từng thìa từng thìa trộn chín, thế là xong.”

“…”

“Từng thìa từng thìa đấy.” Noãn Noãn lại làm thêm động tác tay.

Tôi thử cầm bát lên, nhưng tay trái hơi run, bát lắc lư như gặp động đất.

“Xin cho phép tiểu muội phục vụ huynh.” Noãn Noãn gắp mấy miếng cá bỏ vào bát tôi, lại tưới thêm nước xốt, “Huynh thử đi.”

Tôi gắp một miếng cá lên, nuốt chửng vào bụng trước ánh mắt rạng ngời của Noãn Noãn.

Cay đến cháy da đầu mất, cảm giác như có cột khói đang bốc thẳng lên đầu.

“Thấy thế nào?” Noãn Noãn hỏi.

“Cái… đang… cay” Lưỡi tôi phồng rộp, nói không nên lời.

“Xin cho phép tiểu muội giúp huynh đưa ra kết luận,” Noãn Noãn lại nói. “Thịt cá cay, nước xốt lại càng cay, tóm lại chỉ có một chữ cay.”

“Cái này quả thực là quá cay.” Cuối cùng tôi đành thú nhận: “Anh không giỏi ăn cay.”

“Anh ăn được chứ, đừng khiêm tốn quá. Ăn nhiều chút cay nhỏ bé này đi, anh sẽ cân bằng lại, không còn quá khiêm nhường nữa đâu.”

Món thứ hai lại là một đĩa đỏ rực, trông như thể trên đĩa có lửa.

Tiêu đỏ cay chiếm đa số, thịt gà chỉ chiếm thiểu số, còn đang hồ nghi liệu có phải bây giờ tiêu cay rẻ hơn thịt gà không thì Noãn Noãn đã xúc nửa bát nhỏ đặt trước mặt tôi. Chỉ có hai miếng thịt gà, còn đâu toàn là tiêu cay.

“Đây là gà cay, nghe nói tiêu cay mới là nguyên liệu chính, thịt gà chỉ là phụ liệu thôi,” Noãn Noãn cười nói.

Tôi không dám ăn riêng tiêu cay, đành gắp đồng thời cả gà cả tiêu, trên bột tiêu còn mấy hạt nho nhỏ.

Mới nhai một miếng, tôi đã quên mất sự tồn tại của cái ghế bởi toàn mông tê liệt.

“Đừng coi thường mấy hạt be bé này, đây là tiêu hoa đấy.” Noãn Noãn dùng đũa khều mấy hạt nhỏ trên lớp tiêu đỏ cay. “Sẽ làm anh cay đến nhảy dis¬co luôn.”

Món này vừa tê vừa cay, quả thật quá chán chường, quá lạc hồn rồi.

“Lương Lương, anh khóc rồi à?”, Noãn Noãn hỏi.

“Dân tộc mình trước đây khổ quá.” Tôi lau lau khóe mắt. “Thật là khiến người ta thương cảm.”

“Vậy ăn nhiều chút, nuôi dưỡng tinh thần cho tốt mới báo đáp tổ quốc được.”

“Anh không ăn nổi nữa đâu.”

“Được mà.”

“Noãn Noãn, anh sai rồi. Tha cho anh đi.”

Noãn Noãn cười sặc sụa, bộ dạng rất vui vẻ.

Bụng đói cồn cào, tôi lại miễn cưỡng cầm đũa lên.

“Ăn tê sẽ hết ghê, ăn cay sẽ khỏi say,” tôi nói.

“Anh nói gì đấy?” Noãn Noãn hỏi.

Tôi nghĩ tôi đã cay đến nước mắt nước mũi ròng ròng, không biết nói trăng nói sao gì nữa rồi.

“Không ngờ món Tứ Xuyên lại cay tê thế này,” tôi lấy cốc nước, uống một hơi xong mới nói.

“Đây là món Trùng Khánh. Anh mà nói đây là món Tứ Xuyên thì người Trùng Khánh chắc chắn không tha cho anh đâu.”

“Hóa ra món Trùng Khánh không à?”

“Anh mà nói món Trùng Khánh không phải món Tứ Xuyên thì người Thành Đô  chắc chắn sẽ tủi thân lắm đấy.”

“Này, anh chỉ là một kẻ đáng thương không ăn được cay lại phải nhét tiêu đầy bụng, đừng làm khó anh nữa đi.”

“Thực ra là vì món Trùng Khánh muốn tách riêng, trở thành hệ ẩm thực thứ chín của Trung Quốc, nhưng món Tứ Xuyên lại không đồng ý.”

“Món Trùng Khánh với món Tứ Xuyên có gì khác nhau?”

“Đơn giản mà nói thì, món Tứ Xuyên có vị cay dịu dàng uyển chuyển, món Trùng Khánh lại cay kiểu thô mộc phóng khoáng.” Noãn Noãn cười cười. “Đợi lát nữa em chọn thứ gì không quá cay cho anh.”

“Vô cùng cảm kích.” Tôi vội vàng cảm ơn.

“Em chỉ có thể cố hết sức thôi. Dù gì chuyện này cũng như tìm xương trong trứng.”

Tôi thở dài, xem ra tối nay phải chịu bụng đói rồi.

“Sao tối nay lại phải ăn món Trùng Khánh cay thế này chứ?”

“Em nghĩ các thầy có lẽ đang muốn thị uy với mấy sinh viên Đài Loan các anh đấy.”

“Thị uy đáng nhẽ nên làm từ tối qua lúc xuống máy bay mới phải.”

“Nếu như tối qua đã thị uy, nhỡ may làm quá, các anh lại chạy hết về Đài Loan thì sao được,” Noãn Noãn nói. “Hôm nay làm vẫn tốt hơn, đã lên sân khấu, hóa trang xong xuôi rồi, các anh còn có thể không hát được không.”

“Nham hiểm thật"

“Em đùa đấy, anh đừng có tưởng thật.”

Noãn Noãn dường như đã trở thành một viên quan nếm độc, ăn trước xem có cay hay không rồi mới quyết định gắp cho tôi.

Lúc gắp thức ăn cho tôi, em còn tiện thể bỏ luôn mấy thứ tiêu cay với tiêu hoa.

Chỉ đáng tiếc là món Trùng Khánh thô mộc phóng khoáng, bỏ đi tiêu cay cũng chẳng thể thanh tao nho nhã nổi.

Kết quả là cả bữa ăn tôi chỉ ăn được vài miếng, đến canh cũng không dám uống.

Nhưng các sinh viên Đài Loan khác thì ăn rất đã, chỉ có hai ba người bị bất tỉnh vì quá cay.

Tôi về phòng nghỉ, không chịu nổi bụng rỗng lại mò ra đường kiếm hàng ăn gọi một bát mì.

Một bát mì cực to được bê lên, tôi nhìn quanh bàn chỉ có mỗi đũa, bèn đứng dậy đi đến quầy, hỏi: “Cô có muỗng canh không?”

“Cái gì?” Cô bán mì hình như không nghe rõ.

Tôi nghĩ chắc cô không nghe được giọng Đài Loan, bèn thử uốn đầu lưỡi hỏi lại lần nữa: “Muỗng canh?”

“Cái gì?” Cô vẫn không hiểu.

Tôi đành dùng tay làm động tác múc canh đưa lên miệng.
“Thìa chứ gì?” Cô lấy một cái thìa đưa cho tôi, miệng còn nói lớn: “Thìa là thìa, nói cái gì mà muỗng canh? Muỗng muỗi gì?” Khách trong tiệm cười ha hả, cô bán mì cũng cười theo như thể thi xem ai cười to hơn.

Cô này, tôi từ Đài Loan đến không hiểu gì, cô nên nhỏ tiếng một chút, có phải tôi đỡ ngượng hơn bao nhiêu không.

Tôi ăn vội ăn vàng nửa bát mì rồi biến thẳng.

Trên đường về ký túc, tôi gặp cậu em khóa dưới đi vệ sinh. “Em bị đau bụng,” cậu ta nói.

“Đỡ chưa?” tôi hỏi.

“Chưa anh ạ.” Cậu ta lắc đầu. “Lại sắp bét bung ra như hoa hướng dương rồi đây.”

“Thằng đần!” Tôi vội vàng bịt miệng cậu ta lại. “Không được nói mấy lời đấy ở đây.”

Tôi cùng cậu ta về phòng, vừa may gặp đúng Cao Lượng.

“Anh Thái, mọi người định đi dạo phố ẩm thực, anh đi cùng đi,” cậu ta nói.

Hóa ra sinh viên Bắc Kinh sợ sinh viên Đài Loan không quen ăn cay bèn đưa ra đề nghị đi phố ẩm thực đánh chén.

Các giáo viên cũng không cấm cản, chỉ dặn dò ra ngoài chú ý cẩn thận, đừng về muộn, đừng giả hồ đồ tưởng phố bar là phố ẩm thực.

Phố ẩm thực cũng giống như chợ đêm Đài Loan, chỉ có điều chợ đêm Đài Loan bán cả mấy thứ như quần áo, giầy dép, CD, thỉnh thoảng còn có cả quầy coi bói, tiệm mát xa, còn phố ẩm thực chỉ có toàn đồ ăn.

Vừa ăn hơn nửa bát mì, tôi cũng không thấy đói nên chỉ ngắm nghía đây đó, dù gì ngắm cũng không mất tiền.

Lòng vòng một hồi, hương thức ăn bắt đầu kích thích làm tôi muốn thử chút ít.

“Lương Lương.” Tôi quay lại thì thấy Noãn Noãn, em đưa cho tôi hai xiên thịt dê, nói: “Này, cho anh.”

“Không cay chứ?”, tôi hỏi.

“Anh thử xem.”

Tôi hơi hãi, dùng mũi hít ngửi mấy cái, lại lè lưỡi liếm thử.

“Úi chao, hâm quá đấy,” Noãn Noãn cười nói. “Cứ như con cún ấy.”

“Hình như không cay lắm,” tôi nói.

“Em cố ý bảo người ta không cho cay quá mà,” Noãn Noãn nói.

“Cảm ơn em nhé.”

Noãn Noãn mỉm cười, “Buổi tối anh ăn ít, lát nữa ăn thêm nhiều vào.”

Tôi kể với Noãn Noãn chuyện lẻn ra ăn mì, tiện thể kể luôn quá trình hỏi xin muỗng lại thành trò cười.

Noãn Noãn cười đến không khép nổi miệng, khó khăn lắm mới ngừng lại nói: “Dù gì thì cũng ăn rồi, chúng ta ăn thêm ít đồ ăn vặt nữa.” Nói xong bèn kéo tôi đi ăn Lư Đả Cổn, Ái Oa Oa, Uyển Đậu Hoàng* mang đậm phong vị Bắc Kinh.

*Lư Đả Cổn: Bánh cuộn bột nếp nhân đậu đỏ.

Ái Oa Oa: Xôi nếp nhân đậu đỏ phủ dừa bào.

Uyển Đậu Hoàng: Bánh đậu, thường có màu vàng, dùng trong ngày 3/3 âm lịch.


Nói theo cách của Đài Loan, mấy món này đều có thể quy vào đồ ngọt.

Chúng tôi gắng hết sức để ăn mỗi thứ một ít, nếu ăn không hết thì lại chuyển cho các bạn khác bên cạnh, rồi nói: “Cho cậu một ít, coi như làm quen.”

Dạo phố hơn một tiếng, mọi người bèn kéo về trường học.

Tôi ăn no quá, về đến phòng là nằm vật xuống nghỉ, cậu em khóa dưới và Từ Trì, Cao Lượng còn xem lại mấy bức ảnh đã chụp trong ngày.

“Anh Thái, gà của anh này,” Từ Trì gọi.

Tôi nhảy một phát từ trên giường xuống (tôi vẫn đang nằm trên giường mà), xúm lại với bọn họ, hỏi: “Đâu?”

Từ Trì giơ máy ảnh ra trước mặt tôi, màn hình máy ảnh hiện lên rõ ràng nụ cười của Noãn Noãn.

Tôi nhìn chăm chăm Noãn Noãn mấy giây, Từ Trì chuyển sang ảnh tiếp theo, tôi lập tức chuyển lại, lại nhìn chăm chăm mấy giây nữa.

“Anh Thái, anh về Đài Loan rồi em sẽ gửi cho anh mấy cái ảnh này,” Từ Trì nói.

“Trì huynh.” Tôi sung sướng ôm chầm lấy cậu ta. “Tôi gọi cậu là Trì huynh được không?”

Tối hôm đó tâm trạng bốn người chúng tôi đều rất phấn khởi, chém gió mãi đến tận khuya.

Cậu em khóa dưới thỉnh thoảng đang chém dở lại chạy vào nhà vệ sinh, Cao Lượng hỏi: “Không sao chứ?”

“Mông em thành tranh Phạn Cốc rồi đây,” cậu ta đáp.

Từ Trì và Cao Lượng hồi lâu sau mới hiểu ra Phạn Cốc chính là Phạn Cao, tức Van Gogh, chỉ vì cách phiên âm khác nhau mà thôi.

Tôi ngẫm nghĩ rất lâu mới nhớ ra loài hoa Van Gogh thích vẽ nhất là hoa hướng dương.

Định trèo xuống giường dưới tẩn cho cậu ta một trận vì cái tội nói năng bừa bãi, nhưng thấy cậu ta mồm miệng há hốc, mặt mũi ngu ngu, chắc đang ngủ mơ rồi. Tôi đành trèo lên giường mình, nhắm mắt nghĩ đến nụ cười của Noãn Noãn mà chìm vào giấc ngủ.


P.S: chương này thật dài, type xong mà {:152:}  cũng may truyện không dài lắm, ngày mai sẽ type tiếp ^^ chú thích * là của dịch giả nhé.
Mình sẽ type nhiều nhiều rồi mới post lên 1 thể
200 ký tự =.=  200 ký tự 200 ký tự 200 ký tự 200 ký tự 200 ký tự 200 ký tự 200 ký tự 200 ký tự 200 ký tự 200 ký tự

Bình luận

Cám ơn bạn, tớ chỉ xác nhận để đặt màu và chuyển $ khi hoàn thôi, k có j đâu bạn :)  Đăng lúc 17-6-2013 10:46 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
Đăng lúc 18-6-2013 12:43:23 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 3


Sáng hôm sau chúng tôi làm vệ sinh cá nhân xong, ăn sáng rồi tới giảng đường nghe giảng. Có một học giả nghiên cứu rất sâu về Trường Thành tới diễn thuyết cho chúng tôi nghe. Thầy còn mang một mảnh gạch vụn từ Trường Thành to bằng bàn tay đến, để các bạn sinh viên thử độ cứng của nó.

“Có thể dùng bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể các bạn, ai làm vỡ được sẽ có thưởng,” thầy cười nói.

Khi mảnh gạch chuyền tới tay tôi, tôi nói với cậu em bên cạnh: “No, cho anh mượn đầu cậu.”

“Anh mượn cái đầu lợn làm gì?” cậu ta đáp.

Tôi chẳng buồn đếm xỉa tới cậu ta, hai tay nắm chặt mảnh gạch vụn, vận hết tất tật công lực, tưởng tượng mình là Songoku trong Bảy viên ngọc rồng, miệng gầm AA... chuẩn bị biến hình thành Siêu Xay­da.

“Gãy rồi,” tôi nói.

“Gãy thật rồi?” Noãn Noãn kinh ngạc hỏi.

“Ngón tay anh gãy rồi.”

Lần này đến lượt Noãn Noãn không buồn đếm xỉa đến tôi nữa.

Tiết giảng kết thúc vào khoảng 10 giờ, các giáo viên kêu mọi người chuẩn bị rồi đi leo Trường Thành.

Lại nhớ tối qua các thầy còn dặn đi dặn lại nên đi giày thoải mái, các bạn nữ đừng điệu đà đi giày cao gót, nhớ mang bình nước, đừng vứt rác bừa bãi ở Trường Thành, ai dám ký tên lên gạch Trường Thành thì chết chắc vân vân.

“Còn phải chuẩn bị gì nữa?” tôi tò mò hỏi Noãn Noãn. “Chẳng nhẽ còn phải đeo cà vạt nữa à?”

“Em nghĩ là muốn mọi người chuẩn bị tinh thần không lại vui quá mà ngất đi,” Noãn Noãn nói.

Tôi nghĩ cũng có lý.

Hồi đầu muốn tham gia trại hè lần này phần lớn cũng là vì muốn được leo lên Trường Thành.

Chúng tôi sẽ leo đoạn Trường Thành Bát Đạt Lĩnh cách Bắc Kinh chừng 70 cây số, có thể đi thẳng tới bằng đường cao tốc.

Nếu thời cổ kỵ binh vượt qua Bát Đạt Lĩnh, chẳng phải phút chốc có thể đến sát chân thành Bắc Kinh sao?

Đang toát mồ hôi sợ thay cho Bắc Kinh, đột nhiên trong xe rộ lên tiếng “Ồ”.

Tôi quay đầu nhìn ra cửa kính, bị cảnh tượng trước mắt làm cho sững sờ.

“Đây...” tôi lắp bắp.

“Đây là Cư Dung Quan,” Noãn Noãn nói.

Hai bên Cư Dung Quan là núi cao sừng sững chót vót như những lưỡi gươm, giữa là khe sâu, quan thành Cư Dung Quan nằm ở chính giữa khe sâu đó.

Địa thế hiểm trở, chắn giữ vị trí xung yếu của Bắc Kinh, chẳng trách Lã thị Xuân Thu * từng đề: Thiên hạ cửu tắc, Cư Dung kỳ nhất.

*Lã thị Xuân Thu còn gọi là Lã Lãm là bộ sách do Lã Bất Vi – thừa tướng nước Tần thời Chiến Quốc sai các môn khách soạn ra những điều mình biết, hợp lại thành sách.

Cư Dung Quan không chỉ hùng vĩ, mà phong cảnh còn mê đắm lòng người, dãy núi hai bên ánh màu lam biếc, dòng suối trong xanh chảy ở chính giữa. Thật khó tưởng tượng nổi chiến tranh có thể thay thế vẻ hào hùng, tú lệ nơi đây.

“Xem ra Bắc Kinh có thể thở phào nhẹ nhõm rồi” tôi nói.

“Anh bảo gì cơ?” Noãn Noãn hỏi.

“Kỵ binh vượt qua Trường Thành – Bát Đạt Lĩnh, nhìn thấy Cư Dung Quan nhất định sẽ phải xuống ngựa chiêm ngưỡng cảnh đẹp này,” tôi nói. “Trong lúc cảm kích trước vẻ đẹp tú lệ nơi đây, có lẽ sẽ đột nhiên tỉnh ngộ, cảm nhận nhân sinh khổ đoản, đánh đánh giết giết quá vô vị, lên ngựa quay đầu rút về chưa biết chừng.”

Noãn Noãn trợn tròn mắt nhìn tôi, không nói gì.

“Em đừng lo.” Tôi cười cười với Noãn Noãn. “Bắc Kinh an toàn rồi.”

“Đã bảo anh phải chuẩn bị tâm lý mà.” Noãn Noãn trừng mắt với tôi. “Giờ lại toàn nói nhảm nữa.”

Qua Cư Dung Quan, chẳng mấy chốc đã đến Trường Thành – Bát Đạt Lĩnh. Nhìn đồng hồ, vẫn chưa đến mười một rưỡi.

Giáo viên nói giờ đi ăn mì trụng tương trước, ăn no xong còn có sức lên đường.

(Câu “ăn no còn có sức lên đường” nghe thật kỳ kỳ, phạm nhân bị chém đầu vào phút cuối đều được nghe câu này.)

Lúc ăn mì trụng tương, Cao Lượng khơi chuyện, cậu ta nói hồi nhỏ mẹ cậu ta thường nấu một nồi to tương, chỉ cần múc vài thìa tương rưới lên mì, đảo đảo mấy cái, xì xụp húp là hết một bát, bữa ăn coi như xong.

“Bình thường đều ăn thế đấy,” cậu ta nói.

Tôi bỗng nhớ ra từ lúc xuống máy bay đến giờ, một hạt gạo trắng cũng chưa từng nhìn thấy, chứ đừng nói đến cơm trắng.

Trong sách giáo khoa Địa lý có viết: Người miền Nam ăn gạo, người miền Bắc ăn mạch, cổ nhân nói quả nhiên không sai.

Lên đến cáp treo phía nam nối với Nam Tư Lầu, khoang cáp vừa khởi động, Noãn Noãn liền cười thích thú.

Em xoay người lại, quỳ lên ghế ngồi, nhìn ra bên ngoài cửa sổ, vẫy tay lia lịa, miệng còn nói gì đó.

“Ngồi chắc đi,” tôi nói.

“Lần đầu gặp cũng phải chào Trường Thành, nói câu ‘đã vất vả rồi’ chứ,” Noãn Noãn nói.

“Em...”

“Đây cũng là lần đầu em leo Trường Thành đấy.”

“Đã nói em chuẩn bị tâm lý mà,” tôi nói. “Giờ thì toàn nói nhảm rồi.”

“Anh mới nói nhảm ý.” Noãn Noãn lại xoay người ngồi ngay ngắn.

Xuống cáp treo, các giáo viên dặn dò ngắn gọn nên lượng sức mình, không miễn cưỡng cố quá, nhớ hẹn tập trung ở Phong Hỏa Đài.

Tôi nhìn ra xa, Trường Thành uốn lượn qua các mỏm núi, như một con rồng lớn đang đợi rướn mình bay thẳng lên bầu trời.

Nhìn sang trái phải, hai mặt tường thành độ cao không đều, hình dạng cũng không đồng nhất.

Cao Lượng nói những răng cưa lồi lõm kia gọi là tường lũy, cao gần một mét bảy, vừa đủ để che chắn cho những người giữ thành, phòng ngự kẻ địch bên ngoài. Tường lũy có các lỗ hổng để quan sát bên ngoài lúc tuần tra, dưới các lỗ hổng có một lỗ nhỏ hình vuông để đặt cung tên bắn; mặt thấp hơn chỉ cao một mét, gọi là tường hiên, cũng giống như những bức tường thấp khác.

“Tường hiên dng để làm gì?” Noãn Noãn hỏi.

“Tuần tra mệt rồi có thể ngồi nghỉ uống miếng nước,” tôi nói.

“Đừng nói bừa,” Noãn Noãn nói.

“Người ngựa đi trên đường lên thành, nhỡ may bị ngã xuống dưới thì nguy hiểm, tường hiên này có tác dụng bảo vệ,” Cao Lượng nói. “Hơn nữa tường hiên cách mỗi đoạn lại có một cửa tròn, trong cửa có bậc thang đá để binh sĩ lên thành xuống thành.”

Tôi nhìn Cao Lượng bằng ánh mắt kính trọng.

“Sau khi đến Bắc Kinh, cứ không có việc gì làm em lại leo Trường Thành mà,” cậu ta nói.

Chúng tôi cùng leo về phía Bắc, đoạn nào quá dốc còn có lan can sắt để mọi người vịn vào mà lên xuống.

Nhìn qua các lỗ hổng trên thành, toàn là núi non trùng điệp, cây khô, cỏ dại, làm thành một dải hoang vu.

Cứ cách trăm mét lại có một cái lầu thành hình vuông, loại hai tầng gọi là địch lầu, tầng trên cùng dùng để quan sát hoặc tấn công, tầng dưới để binh sĩ nghỉ ngơi hoặc trữ vũ khí; loại một tầng gọi là thành đài, bốn phía đều có lỗ hổng để tuần tra và tấn công.

Cao Lượng nói lầu Nam Tư, Nam Tam, Bắc Tam, Bắc Tư giờ vẫn hay gọi đều là các địch lầu.

“Chúng ta sẽ trèo lên Bắc Bát Lầu cao nhất so với mực nước biển trên đoạn Trường Thành Bát Đạt Lĩnh,” cậu ta nói.

Noãn Noãn dù gì cũng là con gái, thể lực yếu, thỉnh thoảng lại phải dừng lại dựa vào lan can thở lấy hơi.

Có lúc gió thổi khiến em nghiêng ngả, Cao Lượng nói đây là chỗ hút gió, nên gió rất lớn.

“Nếu là vào giữa mùa Thu Đông, gió còn mạnh hơn, trời còn lạnh hơn. Đến lúc đó leo Trường Thành mới càng có cảm nhận sâu sắc,” cậu ta nói.

Lúc này chúng tôi ai nấy đều mặc quần áo mỏng, chỉ mang thêm bình nước mà vẫn phải bám vào lan can lên xuống; vậy mà tướng sĩ giữ thành thời cổ cả người giáp sắt, tay mang binh khí, đầu đội cuồng phong chạy lên chạy xuống nơi này. Ngày ngày nhìn ra cảnh hoang vu bên ngoài, ngoài tấm áo bào của mình chẳng thấy nổi một bóng ai khác, hẳn phải đơn độc, cô quạnh đến nhường nào.

Muốn thấy bóng người lại cũng sợ thấy bóng người, bởi chỉ cần nhìn thấy một bóng người có thể sẽ đồng nghĩa với việc chiến sự bùng nổ, đây là kiểu tâm trạng mâu thuẫn gì?

“Nếu như...”

“Nếu như nam nữ trên đời đều có thể đối với nhau bằng tấm lòng chân thành thuần khiết,” Noãn Noãn ngắt lời tôi, nói tiếp: “đến lúc đó Trường Thành có thể ngậm cười mà sụp đổ rồi. Có phải anh muốn nói thế không?”

“Hì,” tôi bật cười. “Em nghỉ đủ chưa?”

“Rồi,” Noãn Noãn gật đầu.

Cao Lượng thể lực khỏe, dọc đường cứ giơ máy ảnh như giơ súng chụp đông chụp tây chẳng ngơi nghỉ. Tôi và Noãn Noãn cứ đến một địch lầu lại ngồi nghỉ ngơi uống nước, ngắm nghía tứ phía.

Trên tường thành thường thấy mấy dòng chữ “Đã từng đến đây” do các du khách đề lên, hiện tượng này cũng thường thấy tại các danh lam thắng cảnh ở Đài Loan.

Xem ra Tôn Ngộ Không trong Tây du kí quả là hại người không nhẹ.

Còn nhớ hồi đại học đi thăm nhà ma Dân Hùng, ở đó đâu đâu cũng bị viết “đã từng đến đây”.

Có cậu học sinh chơi ác, khắc xong dòng chữ “đã từng đến đây” còn tiện tay viết thêm điện thoại liên lạc với địa chỉ thầy giáo.

“Xem ông còn dám tùy tiện nữa không nào.” Viết xong cậu ta chua thêm một câu.

Tôi đứng dậy xem trên tường còn có những chữ gì.

“Đến Trường Thành rồi! Mình là Hảo hán!”

Câu này quá thường, không chừng phải có đến tám nghìn viên gạch trên Trường Thành viết thế này.

“Mình phải học theo Trường Thành, kiên cường sừng sững nghìn năm!”

Kiên cường cũng tốt, nhưng phải có công, tâm, đức. Không có công, tâm, đức mà sừng sững nghìn năm chắc thành di họa nghìn năm mất.

“Tiểu Hồng! Tình yêu anh dành cho em ngun ngút như Trường Thành!”

Trò ngớ ngẩn làm lúc si mê, cũng có thể thông cảm. Tiểu Hồng làm ơn, đá thằng cha đó đi.

“XX của ta còn dài hơn Trường Thành!”

“Mẹ kiếp!” tôi không kìm nổi buột miệng.

“He he...” Thấy Noãn Noãn đang nhìn, mặt tôi đỏ bừng. “Anh thất thố quá.”

“Không sao,” Noãn Noãn nói, “anh chửi được đấy”.

“Anh còn có thể chửi khó nghe hơn ấy chứ.”

“Chửi nghe xem nào.”

Tôi mở miệng, trước sau đều không phun được từ nào nữa, cuối cùng đành nói: “Hay bọn mình đi tiếp đi.”

Trèo lên phía trước một lúc, cuối cùng cũng­Phong Hỏa Đài, địa thế ở đây vừa cao vừa hiểm, tầm nhìn lại rộng rãi, vậy nên mới được dùng làm nơi đốt lửa báo hiệu.

Có khoảng hơn hai mươi sinh viên đang ngồi tán chuyện, Từ Trì nhìn thấy tôi bèn nói: “Anh Thái, chân anh vẫn ổn đấy chứ?”

Nghe cậu ta nói tôi mới cảm thấy chân mình đã hơi bủn rủn.

Trong bốn giáo viên đã có ba người tới nơi, thầy Lý phía Bắc Kinh bị tụt lại phía sau, thầy tới cũng có nghĩa là cả đoàn đã đầy đủ.

Mười phút sau, thầy Lý cuối cùng cũng cán đích.

Thầy thở hồng hộc, đếm lại số người, hắng giọng vài cái rồi nói:

Mọi người đều đã nghe câu “Bất đáo Trường Thành phỉ hảo hán” rồi, nhưng có nhất định phải leo Trường Thành mới chứng tỏ mình là hảo hán không? Các bạn cứ thử chọn một ngọn núi hiểm trở, rồi trèo từ chân núi lên đỉnh núi xem, ai dám nói các bạn không phải hảo hán? Hoặc giả các bạn đi bộ một lèo quanh Bắc Kinh, giữa đường không nghỉ, không gọi xe cấp cứu không khóc bố gào mẹ, lại chẳng phải hảo hán sao? Leo Trường Thành, mục đích không chỉ để chứng tỏ mình là hảo hán, nhìn dưới chân xem, các bạn đang giẫm lên những động mạch lịch sử. Có Trường Thành, nước Tần mới có thể thôn tính sáu nước, thống nhất Trung Nguyên; nếu như không có Trường Thành, lịch sử sẽ hoàn toàn thay đổi. Các bạn thường đọc trong sách những câu thơ ngắm vịnh Trường Thành cùng những tướng sĩ nơi biên cương, đó là nét đẹp của văn học; ngày hôm nay, các bạn leo một lượt, càng có cảm xúc sâu sắc hơn về nét đẹp văn học ấy, đồng thời các bạn cũng có thể cảm nhận tính chân thực của lịch sử. Lịch sử chính là dấu chân của nhân loại để lại qua hàng nghìn năm, dấu chân của các bạn lúc này đây cũng sẽ trở thành lịch sử trong tương lai đấy. Nhìn quanh bốn phía, địa thế càng hiểm yếu, càng thể hiện sự hùng vĩ của Trường Thành, nếu như Trường Thành được xây trên đồng bằng, thế lại chẳng như một bức tường sao. Đời người cũng thế, càng khó khăn trắc trở, càng có thể thể hiện giá trị của các bạn, càng có thể khích lệ các bạn tiến lên, hiểu được tầng đạo lý này, các bạn mới là hảo hán đích thực.

Thầy nói xong mọi người rào rào vỗ tay, thầy Lý quả thực nói rất hay. Tuy nhiên hơi cảm tính quá thì phải.

Thầy Trương phía Bắc Kinh đứng dậy, cũng hắng giọng nói:

“Lát nữa mọi người cùng đứng chụp một bức ảnh tập thể dưới Phong Hỏa Đài. Trong lúc chụp ảnh, mong các bạn sinh viên hãy cùng thầm cầu nguyện trong lòng: Nguyện Phong Hỏa Đài mãi không còn đốt lên khói lửa.”

Giờ thì sao đây? Cảm tính cũng có thể bị lây nhiễm rồi.

Thầy Trương mời thầy Chu phía Đài Loan cũng lên nói vài lời, thầy Chu chậm rãi đứng dậy, nhìn quanh khắp lượt, nói:

“Thường nghe người ta nói: Đây chính là lịch sử. Câu nói này còn có một ý nghĩa sâu xa khác. Chúng ta đều biết ‘đây’ trong Tiếng Anh nói là ‘dít-sờ’ (this), đọc lên nghe rất giống ‘lịch sử’, do vậy this is lịch sử có nghĩa là...”

Thầy ngẩng đầu lên, nhìn về phía xa, nói: “Đây chính là lịch sử.”

Nghe xong câu này, tôi chỉ còn biết ngã lăn ra đất.

Phong Hỏa Đài dù có đốt lên khói lửa, nghe thầy nói một câu, có lẽ cũng tắt luôn.

Cuối cùng là thầy Ngô phía Đài Loan, thầy chỉ điềm nhiên nói:

“Các bạn sinh viên trong lòng nhất định có rất nhiều cảm xúc muốn được bộc bạch. Thế này đi, tối nay trước khi đi ngủ, mỗi người hãy nộp một bài viết 500 chữ về cảm xúc khi leo Trường Thành cho tôi.”

Tôi vừa nghe xong liền từ dưới đất đứng bật dậy, tru lên một tiếng bi thương.

“Tôi chỉ đùa thôi.” Thầy bật cười ha hả. “Lát nữa còn phải leo tiếp, cho các bạn  liều thuốc kích thích ấy mà.”

“Hơi đâu đùa cái gì chứ.” Tôi hừ mũi.

“Thế còn anh?” Noãn Noãn hỏi. “Anh thì có cảm xúc gì?””

“Anh...”

“Có phải anh lại định nói cáp treo dài, Trường Thành lại càng dài, đến sợi mì ăn bữa trưa cũng dài hơn ở Đài Loan, tóm lại chỉ một chữ dài?”

Tôi cười không trả lời. Đúng là bị em nói trúng rồi.

Khi mọi người tập trung lại chuẩn bị chụp ảnh, thầy Chu lại nói:

“Mọi người lôi chứng minh thư ra để trước ngực chụp ảnh, như vậy mới kool.”

Giờ là lúc chụp ảnh tội phạm truy nã ư?

Tôi liếc trộm tấm thẻ chứng minh thư trong tay Noãn Noãn, còn em đường hoàn quay đầu nhìn chăm chú tấm thẻ của tôi.

Tôi khẳng khái đưa tấm thẻ cho em, em cười cười, cũng đưa tấm thẻ của em cho tôi.

Chứng minh thư của Noãn Noãn có in nổi bản đồ Trung Quốc màu trắng trên nền xanh dịu, còn có một cột biểu thị “Dân tộc Hán”.

“Tiếp tục lên đường thôi,” chụp ảnh xong, thầy Trương nói.

Mới leo được không lâu, đã thấy tận cùng của tường thành là vách núi, cụt đường rồi.

“Đây là nơi nàng Mạnh Khương khóc đổ Trường Thành phải không?”

“Không phải,” Noãn Noãn chỉ tay phải về phía Đông, “là ở Sơn Hải Quan kìa, nơi Trường Thành nhập vào biển.

“Thật không?”

“Phía đông thành Sơn Hải Quan có làng Đá Vọng Phu, phía bắc ngôi làng là ngọn núi Phượng Hoàng, miếu nàng Mạnh Khương ở chỗ đó. Sau miếu có một hòn đá lớn, gọi là đá Vọng Phu. Phía trên bên phải có một vết lõm, là dấu chân em Mạnh Khương đứng trên hòn đá chờ chồng.”

“Em đến đó rồi à?”

“Em nghe kể thế.”

“Sao em toàn nghe kể thế?”

“Vì tai em tốt mà.” Noãn Noãn cười.

Noãn Noãn dứt khoát ngồi xuống, vẫy vẫy tay với tôi, tôi bèn ngồi xuống cạnh em.

“Trên mặt biển Bột Hải phía đông nam miếu nàng Mạnh Khương, có hai rặng san hô cao thấp đối xứng nhau, rặng cao đứng như một tấm bia, rặng thấp nằm như một ngôi mộ, nghe nói đó chính là mộ nàng Mạnh Khương.” Ngừng lại một lúc, Noãn Noãn lại nói tiếp:

“Dù cho nước biển dâng thế nào, cũng vĩnh viễn không nhấn chìm được ngôi mộ đó.” Giọng Noãn Noãn khi kể chuyện rất dịu dàng, khiến người ta không muốn chen ngang phá tan không khí.

“Rất đẹp phải không?” một lúc sau, Noãn Noãn hỏi.

“Ừ.” Tôi gật đầu.

Liếc mắt sang thấy Noãn Noãn khẽ ngẩng đầu, nhắm mắt lại, thần thái rất thả lỏng.

Sau lưng vang lên hai tiếng he he, tôi và Noãn Noãn cùng quay đầu lại, đã thấy Cao Lượng đứng sau lưng.

“Xin lỗi nhé, quấy rầy hai người rồi,” cậu ta nói. “Thực ra có rất nhiều lỗ hổng trong truyền thuyết nàng Mạnh Khương.

“Hở?” Tôi đứng lên.

“Thứ nhất, nàng Mạnh Khương và Tần Thủy Hoàng căn bản không phải là người cùng một thời, Tần Thủy Hoàng phải kêu nàng Mạnh Khương là bà cố cố cố cố..., vài từ cố nữa vẫn còn thiếu. Thứ hai, Trường Thành mà Tần Thủy Hoàng và các vị tiên tổ khác đã xây dựng chưa từng tới tận Sơn Hải Quan.”

Cao Lượng nói như đinh đóng cột.

Tôi tin những gì Cao Lượng nói là đúng với sử sách.

Nhưng, giữa nàng Mạnh Khương “đẹp” và nàng Mạnh Khương “thật”, nếu như hai nàng muốn xông vào đánh nhau một mất một còn, tôi thà giữ nàng Mạnh Khương “đẹp” lại lòng mình.

Dù gì tôi cũng đã lĩnh ngộ được cái “thật” của lịch sử, vậy hãy để tôi giữ lấy cái “đẹp” của nàng Mạnh Khương đi.

Nghe úi chao một tiếng, hóa ra Noãn Noãn muốn đứng dậy kết quả lại ngã phệt xuống đất.

“Chân hơi tê.” Noãn Noãn cười đứng dậy.

“Để anh giúp em.” Tôi đưa tay phải ra.

Noãn Noãn cũng giơ tay phải nắm lấy tay tôi, tôi thuận thế kéo một cái, em liền đứng dậy, phủi phủi ống quần.

“Có đường tắt,” Cao Lượng chỉ về một bên, “đi qua kia là có thể tiếp tục leo rồi.”

Cao Lượng dẫn tôi và Noãn Noãn lên Trường Thành qua đường tắt. “Sắp tới rồi,” cậu ta cứ luôn mồm nói vậy.

Nhìn thấy có một địch lầu không xa, tôi thầm nghĩ lại được nghỉ một lúc

“Cuối cùng cũng đến Bắc Thất Lầu,” Cao Lượng nói.

“Bắc Thất? Cậu khẳng định đây là Bắc Thất ư?”

“Đúng thế,” Cao Lượng nói. “Lầu tiếp theo là điểm cuối cùng, Bắc Bát Lầu.”

“Noãn Noãn!” tôi gọi lớn.

“Em ở ngay cạnh anh này,” Noãn Noãn nói, “anh gọi cái gì thế?”

“Mau, đây là lầu của em, em phải đứng đây chụp riêng một kiểu.”

Noãn Noãn và Cao Lượng hình như đều không hiểu mô tê gì.

Tôi giục mãi, Noãn Noãn nói: “Máy ảnh của cậu ấy chuyên nghiệp lắm, đừng lãng phí phim.”

“Phim cũng như tuổi trẻ ấy, đều dùng để lãng phí mà,” Cao Lượng cười cười.

Ồ? Lời Cao Lượng nói cũng sâu sắc thật.

Cao Lượng giơ ống kính ra ý Noãn Noãn mau chọn tư thế, Noãn Noãn nhìn ánh mắt gi­an tà của tôi, chỉ tôi nói: “Anh quay người đi, không được nhìn.”

Tôi quay người đi, Cao Lượng chụp tách một kiểu, rồi nói: “Anh Thái, anh cũng làm một kiểu không?”

“Thôi,” tôi lắc đầu, “cái lầu này chỉ có thể dùng để hình dung Noãn Noãn thôi.”

Phóng tầm mắt nhìn ra xa, Bắc Bát Lầu cô quạnh đứng giữa không trung, xa xôi nghìn trùng.

Tưởng như ông trời đã giơ tay ra túm Bắc Bát Lầu nhấc lên trời, vậy nên con đường tới Bắc Bát Lầu mới theo đó mà thẳng đứng như vậy.

Đường càng đi càng dốc, thành càng đi càng hẹp, gạch trên tường thành dường như cũng càng dày nặng hơn.

“Đoạn đường này được gọi là dốc Hảo Hán,” Cao Lượng nói. “Anh Thái, cố nữa lên.”

Tôi sắp nước mắt ròng ròng rồi đây.

Phàm là những nơi mang tên dốc Hảo Hán, đều là chỗ ngang nhiên hành hạ con người.

Hồi đại học leo lên dốc Hảo Hán ở núi Ali, leo đến nỗi cuối cùng đúng thành bốn chân bò trên mặt đường mà leo.

Tôi bảo Noãn Noãn leo trước tôi, làm thế ngộ nhỡ em trượt chân rơi xuống tôi còn có thể đỡ kịp.

“Sư huynh, em ở sau anh này.” Tôi quay đầu bèn thấy cậu em khóa dưới, nhưng đến câu chào tôi cũng chẳng còn sức mà nói nữa.

Cậu ta tay phải kéo tay Vương Khắc leo lên, tay trái còn giơ chữ V ra với tôi.

“Em hơi sợ độ cao, nên...” Vương Khắc dường như thấy ngại, nhỏ nhẹ nói.

Không ngờ tên tiểu tử này tinh thần tốt vậy, còn có thể nắm tay con gái nhà người ta nữa, điều này khiến tôi thật không thoải mái.

“Đừng khựng mông lại chứ huynh.” Cậu ta lại nói, “Em không tránh được đâu.”

Nếu như không phải... tôi hết hơi... chửi người... Vương Khắc lại ở đây... tôi nhất định chửi cậu... đồ đầu lợn.

Tôi hẳn phải mệt chết rồi, ngay đến tâm tư trong lòng cũng bị ngắt quãng thế nà

Noãn Noãn hình như cũng không chịu nổi nữa, dừng chân thở hồng hộc.

“Noãn Noãn,” tôi nói, “nói cho em chuyện này rất hay.”

“Gì?” Noãn Noãn quay lại.

“Em có biết ở Đài Loan đồ ngốc nói thế nào không?”

“Nói thế nào?”

“Chính là ‘bắc thất’.”

“Anh...”

Noãn Noãn trừng mắt chỉ tay về phía tôi.

“Muốn báo thù thì đi tiếp hẵng nói.”

Noãn Noãn biến phẫn uất thành sức mạnh, cắm đầu đi tiếp. Sắp tới rồi... sắp tới rồi...

Cuối cùng cũng tới rồi.

Noãn Noãn chẳng còn sức đâu mà mắng tôi, ngồi liệt dưới đất. Còn tôi đến sức để ngồi cũng chẳng có nữa.

Vương Khắc lia lịa cảm ơn cậu em nọ, thằng nhóc chỉ biết cười ngớ ngẩn.

“Không có gì đâu,” cậu ta nói, “tớ hay dắt mấy bà lão qua đường lắm.”

Thằng khốn, đến tay bà già đầy vết nhăn nheo cũng không tha.

Cảnh sắc trên Bắc Bát Lầu càng hoang vắng, người đứng ở nơi này càng cảm thấy cô độc.

Tôi thầm nghĩ những binh sĩ trấn thủ nơi đây ăn cơm thế nào được? Có khi còn đưa cơm lên nữa.

Lúc đi xuống ăn cơm, cứ nghĩ đến ăn no xong lại phải leo một đoạn thế này, thì sao mà ngon miệng cho nổi.

Có khi lâu ngày rồi chẳng buồn xuống ăn cơm nữa.

Thật khiến người ta quá thương cảm.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
Đăng lúc 18-6-2013 12:49:05 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 3
(Tiếp)


Thầy Lý sau rốt cũng lên tới nơi. “Thế nào rồi?” thầy cười hỏi.

“Liệt rồi ạ.” Cả đám sinh viên kêu thảm thiết.

“Đã lĩnh ngộ được ‘’Ỷ kiếm dục thùy ngữ, quan hà không uất hu ‘’* của thi nhân Cao Thích thời Đường chưa?” thầy hỏi.

‘’Ỷ kiếm dục thùy ngữ, quan hà không uất hu ‘’: Rút kiếm khỏi bao, chí hướng báo quốc tỏ cùng ai? Mặt sông biên cương, mênh mông khói sóng lặng như tờ.

“Một lĩnh ngộ quá đau đớn,” có sinh viên Đài Loan trả lời.

“Đây chính là lịch sử,” thầy Chu phía Đài Loan nói. “Mọi người nói có phải không?”

Lần này chẳng ai còn sức trả lời nữa.

“Hăng hái lên nào, các vị hảo hán.” Thầy Trương phía Bắc Kinh giơ máy ảnh lên. “Mọi người cùng chụp chung một bức ở đây, mong các bạn thầm nhủ trong lòng: tôi là một hảo hán yêu hòa bình.”

Lúc chụp ảnh, thầy Ngô phía Đài Loan kêu cậu em khóa dưới tôi nằm xuống đất giả chết, lại gọi thêm bốn sinh nữa lần lượt nắm lấy tứ chi cậu ta khiêng lên làm bối cảnh. Thật khổ cho thầy vẫn còn có hứng làm trò cười.

Từ đây, chúng tôi ngồi cáp treo phía bắc xuống thành. Ngồi trong khoang cáp, thấy buồn ngủ, nên xuống khỏi cáp treo, lên ô tô, chẳng bao lâu tôi đã ngủ thiếp đi.

Noãn Noãn lay tôi tỉnh, mở choàng mắt đã thấy mọi người đều đang xuống xe, tôi cũng nhổm dậy theo.

Trời đã tối, tôi cảm thấy mờ mờ ảo ảo, lúc xuống xe chân bước còn không vững.

“Cả đoàn đi rửa mặt mũi, xốc lại tinh thần trước đã,” thầy Lý nói. “Tôi thấy hay tối nay đừng ra ngoài nữa, cứ ăn trong nhà ăn của trường thôi.”

“Ăn trên xà ngang?” tôi hỏi Noãn Noãn. “Chúng ta đều biến thành vượn rồi sao?”

“Nhìn miệng em đây này.” Noãn Noãn nói lại rành rọt từng chữ: “Nhà – ăn.”

Hóa ra là ăn cơm tại căng tin trường, thế thì quá tốt, không cần phải vội vàng nữa.

Rửa mặt bằng nước lạnh xong, cũng coi như lấy lại được chút tinh thần. Bước vào căng tin, cuối cùng cũng nhìn thấy cơm trắng.

Ai chà, mấy ngày không gặp rồi, em vẫn trắng như thế, thật khiến người ta cảm động quá.

Lát nữa mà ta có ăn ít thì em đừng phật lòng nhé, đấy không phải lỗi của em, chỉ là vì ta mệt quá thôi.

Ý? Hình như em khô đi hả, sau này nhớ vào nồi cơm điện rồi phải uống thêm ít nước nhé.

“Anh lầm bầm cái gì đấy?” Noãn Noãn bê đĩa cơm đứng trước mặt tôi. “Vẫn chưa tỉnh à?”

“Tỉnh rồi chứ.”

“Anh chắc không?” Noãn Noãn đặt đĩa cơm, ngồi xuống đối diện tôi.

“Anh biết em tên là Noãn Noãn, người Hắc Long Giang, lên Bắc Kinh học, thích tỏ ra sành sỏi, tai rất thính nên thường hay nghe nói. Như thế đã coi là tỉnh chưa?”

“Anh vẫn còn quên một chuyện.”

“Chuyện gì?”

“Em muốn tới Noãn Noãn.”

“Anh lại buồn ngủ rồi.” Tôi nằm bò ra bàn giả vờ ngủ. Nằm một lúc, không nghe thấy Noãn Noãn có phản ứng gì.

Cứ nằm bò ra cũng không phải cách hay, tôi bèn từ từ ngồi dậy, len lén cầm bát đũa.

“Mỏi chân không?” Noãn Noãn hỏi.

“Ừ.” Tôi gật đầu. “Em cũng thế à?”

“Đương nhiên rồi, leo cả một ngày Trường Thành, lẽ nào chân vẫn còn bình thường được?”

“Tính hài hước của em sâu sắc thật đấy.”

“Thế ư?”

“Anh từng xem một bộ phim, nữ nhân vật chính và nam nhân vật chính đứng tránh mưa dưới cây dừa, đột nhiên từ trên cây rơi xuống một quả dừa, chàng trai nói: Là quả dừa đấy! Cô gái vặc lại: Từ trên cây dừa rơi xuống đương nhiên là quả dừa, lẽ nào lại là quả ổi chắc?” Tôi cười cười, “tính hài hước của em giống nữ nhân vật chính thật.”

“Anh thích xem phim à?” Noãn Noãn hỏi.

“Ừ,” tôi gật đầu, “phim gì cũng xem, nhưng phim nghệ thuật thì rất ít xem.”

“Sao lại thế?”

“Có lần anh xem một bộ phim nghệ thuật, trong đó Võ Tòng nói với Phan Kim Liên rất thâm tình thế này: trong lòng tôi, chị mãi là một bông hoa vàng trên đồng cỏ xanh.” Tôi cười sằng sặc. “Khoảnh khắc đó, anh sụp đổ luôn.”

“Sao lại cười kiểu thế?”

“Lúc đó anh cười thế đấy, kết quả bao ánh mắt như băng xung quanh đều chĩa hết lại. Từ đó anh không dám xem phim nghệ thuật nữa, sợ lại nghe thấy mấy câu thoại kinh điển kiểu thế.”

Nói xong, tôi lại không kìm nổi cười sằng sặc.

“Cười xong chưa?” Noãn Noãn nói. “Miệng anh không tê à?”

“He.” Tôi ngừng cười, nói: “Thật đến giờ anh vẫn còn sợ đây.”

Đột nhiên cảm thấy chỉ cần ở bên Noãn Noãn, tôi liền trở nên lắm lời.

Điều này có hai khả năng, một là em có thể khiến tôi bất giác muốn nói nhiều, hai là tôi dễ dàng cảm thấy em muốn nghe, thành ra càng nói càng nhiều chuyện.

Ngay như bây giờ, em có vẻ khá mệt mỏi, nhưng lại vẫn có tinh thần nghe tôi nói mấy lời nhảm nhí này.

“Thật mệt quá.” Em cúi đầu nhìn đĩa cơm. “Ăn không hết, phải làm sao đây?”

“Ăn không hết, gói mang về.” Tôi nói.

“Câu này không phải dùng thế đâu.”

“Ở Đài Loan dùng thế đấy.” Tôi cười he he mấy tiếng.

Tôi và Noãn Noãn ra khỏi nhà ăn, đi mấy bước, tôi bỗng dừng khựng lại.

“À. Suýt nữa quên mất,” tôi nói.

“Quên gì ?”

“Anh mới là ‘bắc thất’,” tôi chỉ mình nói. “Lúc ở Trường Thành trêu em, em đừng để bụng nhé.”

Noãn Noãn nghĩ một lúc rồi bật cười thành tiếng, nói: “Lần sau đừng có đem tiếng Đài Loan ra mắng em, em nghe không hiểu đâu.”

“Ừ,” tôi nói, “muốn mắng em nhất định phải mắng bằng tiếng phổ thông, thế em mới hiểu được.”

“Này!”

“Anh đùa thôi.”

Đi qua giảng đường, thấy phần lớn sinh viên đều đang ở bên trong, tiếng cười đầy ắp căn phòng.

Người nói chuyện, người khoe đồ lưu niệm hôm nay mua ở Trường Thành, có người lại xem ảnh trong máy kỹ thuật số.

Tôi và Noãn Noãn nhập hội với bọn họ, Từ Trì nói với tôi: “Anh Thái, em chụp trộm anh một cái đấy.”

Xích lại xem, hóa ra là kiểu tôi ngã phịch xuống đất ở Phong Hỏa Đài.

“Lúc đấy sao anh không làm chữ V?” Noãn Noãn nói.

“Em đúng là chỉ thấy cây mà không thấy rừng,” tôi nói, “hai chân anh choãi ra, chẳng phải là hình chữ V rồi còn gì?”

Tôi đắc ý cười ha ha, cười còn chưa dứt, mắt đã tia thấy cậu em khóa dưới đang ngồi cùng Vương Khắc trong góc giảng đường.

Tôi tò mò tiến lại.

Vương Khắc đang cúi đầu vẽ gì đó, cậu em ngồi đối diện, cũng cúi đầu xem Vương Khắc vẽ vẽ.

Tôi chen đầu vào giữa hai người, ba cái đầu vừa hay làm thành một tam giác cân.

Đó là một bản vẽ phác, Trường Thành uốn lượn trên các mỏm núi như một con rồng, người tới ngao du Trường Thành điểm xuyết thành những vây rồng.

“Vẽ đẹp quá!” tôi thốt lên cảm thán.

Vương Khắc ngẩng đầu lên, bẽn lẽn cười với tôi.

“Sư huynh.” Tên tiểu tử cũng ngẩng lên, ra chiều thần bí nói: “Sáng nhỉ.”

“OK,” tôi gật đầu với cậu ta, “anh hiểu.”

Lúc quay người định đi, tôi còn thấy ánh mắt Vương Khắc đầy vẻ bối rối.

“Ý của cậu ta là anh đang làm cái bóng điện giữa hai đứa ấy,” tôi nói với Vương Khắc. “Bóng điện chính là...”

“Sư huynh!” Cậu em đã hơi sốt ruột.

Vương Khắc đã hiểu ra, mặt lộ vẻ ngượng nghịu, lại cúi xuống vẽ tiếp.

Tôi cười thỏa mãn bỏ đi.

“Anh này, thật xấu gớm,” Noãn Noãn nói.

“Xấu gớm?” tôi hỏi. “Nghĩa là gì?”

“Gớm trong tiếng Đông Bắc nghĩa là rất, cực kỳ.”

“Ồ,” tôi bừng tỉnh lĩnh ngộ, “Noãn Noãn, em thật xinh gớm. Nói thế có được không?”

“Cách nói thì không sao,” Noãn Noãn bật cười, “nhưng tính từ miêu tả em có vẻ không thích hợp"

“Đã không thích hợp sao em còn cười vui thế?”

“Lương Lương!” Noãn Noãn hét lên.

Tôi vội vàng dạt sang bên Từ Trì giả bộ bận bịu.

Mọi người ngồi trong giảng đường nói chuyện rất khuya, mãi đến khi các thầy tới đuổi mới chịu tan.

Về đến phòng, vừa nhảy lên giường đã thấy hai mắt trĩu xuống.

“Anh Thái, lần sau anh đến Bắc Kinh, em dẫn anh đi leo đoạn Trường Thành Tư Mã Đài,” Cao Lượng nói.

Cậu ta bảo chỗ đó là đoạn Trường Thành heo hút, rất ít du khách, với lại phần lớn toàn là khách nước ngoài.

Cậu ta cũng nói Trường Thành Tư Mã Đài cực kỳ hùng vĩ hiểm trở, là thiên đường của các nhà thám hiểm, vân vân...

Tôi cũng chả nhớ nữa, vì cậu ta kể đến nửa tôi đã ngủ thiếp rồi, người đã ngủ trí nhớ vốn ngắn mà.

HẾT CHƯƠNG 3.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách