|
Ngay trước 2 giờ chiều, tôi trèo qua bức tường bê tông để sang bên cái ngõ, đúng hơn là chỗ mà chúng tôi gọi là cái ngõ. Thật ra nó chẳng phải là "ngõ" theo đúng nghĩa; hẳn là chẳng có từ nào thích hợp để gọi nó cả. Nó không phải là "đường", không phải "lối đi", cũng chẳng ra cái "ngõ". Dù "đường" hay "ngõ" thì cũng phải có lối vào và lối ra, phải dẫn ta tới một chỗ nào đó nếu ta đi theo nó. Nhưng cái "ngõ" này chẳng có lối vào cũng chẳng có lối ra. Cũng không thể gọi là "ngõ cụt", vì ít ra ngõ cụt cũng còn có lối vào. Còn cái ngõ này thì cả hai đầu đều cụt. Người dân xung quanh cứ gọi là "ngõ" cho tiện. Nó dài khoảng trăm mét, len lỏi giữa những khoảnh sân sau của các căn nhà dọc hai bên. Bề ngang nó chỉ tròm trèm một mét, ở vài chỗ thậm chí phải lách người qua mới qua được giữa những hàng rào thòi ra giữa lối đi hoặc phải tránh những đống đồ phế thải.
Về cái ngõ này, ông cậu tôi, người cho vợ chồng tôi thuê căn nhà này với giá gần như cho không, bảo rằng xưa kia nó cũng có đầu vào đầu ra, từng đóng vai trò kiểu như một lối đi tắt giữa hai con phố. Nhưng với sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng vào giữa thập kỷ 1950, hàng dãy nhà mọc lên trên các lô đất trống dọc hai bên ngõ, ép nó lại cho tới khi chỉ còn là một lối đi hẹp. Dân tình không thích kẻ lạ đến gần nhà và sân của mình, thế nên chẳng bao lâu một trong hai đầu ngõ bị người ta ngăn lại, đúng hơn là che lại bằng một hàng rào xộc xệch. Một người đia phương quyết định nới rộng khoảng sân của mình, thế là xây luôn một bức tường bê tông bít kín đầu ngõ. Như để đáp trả, một hàng rào dây thép gai được dựng ở đầu bên kia, ngay lũ chó cũng không qua lọt. Hàng xóm chẳng ai kêu ca gì, bởi có ai dùng cái ngõ này làm lối đi đâu, thậm chí họ còn hài lòng là khác, bởi nhờ bức tường rào này họ lại có thêm một lớp bảo vệ trước những phường bất hảo. Kết quả là cái ngõ chỉ còn như một kênh đào bị bỏ hoang, không ai dùng tới, có chăng chỉ là một vùng đệm giữa hai dãy nhà, thế thôi. Lũ nhện chăng mạng dày đặc trong những lùm cây mọc um tùm.
Cớ sao Kumiko hay lui tới một nơi như vậy? Bản thân tôi chỉ mới đi trên cái "ngõ" này không quá hai lần, Kumiko thì sợ nhện nhất trần đời. Nhưng thôi, quỷ tha ma bắt - nếu Kumiko đã bảo tôi ra ngõ kiếm con mèo thì tôi cần phải ra ngõ kiếm con mèo. Chuyện gì sẽ tới hẵng nghĩ sau. Đi ra ngoài thế này vẫn tốt chán so với ngồi nhà chờ điện thoại reo.
Ánh nắng chói đầu hè rọi qua bóng những cành cây trải rộng trên đầu, vẽ những đốm tròn lỗ chỗ xuống bề mặt ngõ. Không có ngọn gió nào lay động cành lá, những bóng cây trông như những vết ố mà số trời đã định là sẽ in lên mặt đường này vĩnh viễn. Dường như không thứ tiếng động nào lọt được đến nơi này. Hầu như tôi có thể nghe những ngọn cỏ phập phồng trong ánh nắng. Vài đám mây nhỏ trôi qua bầu trời, bóng của chúng rõ rệt, sắc nét, như những đám mây trong tranh khắc thời trung cổ. Tôi cảm nhận mọi thứ một cách rõ ràng đáng sợ đến nỗi chính thân thể tôi bỗng như trở nên mơ hồ, vô hạn, tuôn chảy và... nóng bỏng.
Tôi mặc áo thun, quần mỏng bằng vải bông, mang giày tennis, nhưng khi đi dưới ánh nắng hè, tôi cảm thấy một lớp mồ hôi mỏng đọng dần dưới hai cánh tay và trên hõm ngực. Chiếc áo thun và quần sợi bông này lâu nay bị nhét trong cái hộp lèn chặt quần áo mùa hè, tôi chỉ mới lấy ra mặc sáng nay, nên mùi băng phiến hăng hắc xộc vào trong lỗ mũi tôi.
Những căn nhà dọc hai bên ngõ chia làm hai loại khác hẳn nhau: những căn nhà cũ và những căn nhà mới xây. Những căn nhà mới thì nhỏ hơn, sân cũng nhỏ hơn. Những chiếc sào phơi quần áo trong sân thường thò hẳn ra ngoài ngõ, khiến nhiều lúc tôi phải len lỏi giữa những bức màn chắn bằng khăn mặt, khăn trải giường, đồ lót. Bên kia vài bức tường hậu vẳng ra tiếng ti vi, tiếng nước dội toa lét, thoang thoảng mùi nấu cà ri.
Những căn nhà cũ thì ngược lại, hầu như không có dấu hiệu sự sống. Chúng được ngăn cách bằng những bụi cây và hàng dậu ngay hàng thẳng lối, xen giữa là những mảnh vườn tỉa tót công phu.
Một cây thông Giáng sinh già nua, nâu xỉn, khô héo đứng trong góc một khu vườn. Một khu vườn khác đã hóa thành bãi rác để người ta vứt bỏ bất cứ món đồ chơi nào của con người, rõ ràng là nơi vứt bỏ hàng mấy thế hệ tuổi thơ. Nào chiếc xe đạp ba bánh, vòng gỗ, kiếm nhựa, bóng ca su, nào những con rùa đồ chơi, những chiếc mũ bóng chày bé xíu. Một khu vườn có một khoảnh chơi bằng bóng rổ, một vườn khác nữa có những cái ghế xinh xẻo xếp quanh chiếc bàn bằng gốm. Bụi đóng dày trên những chiếc ghế vốn dĩ màu trắng, hình như chẳng ma nào đụng tới nhiều tháng, thậm chí nhiều năm rồi. Mặt bàn phủ đầy những cánh hoa mộc lan tím bị mưa dập vùi tan nát.
Tôi thấy rõ một căn phòng khách qua một cánh cửa ngoài bằng nhôm. Phòng khách gồm một bộ sofa và ghế bành bằng da, một cái tivi lớn, một tủ buýp phê (trên đó có một bể nuôi cá nhiệt đới và hai món chiến lợi phẩm gì đó), một cây đèn đứng để trang trí. Căn phòng trông như bối cảnh cho một vở kịch truyền hình. Một cái cũi chó to đùng chiếm lĩnh phần lớn diện tích một khu vườn khác, những chẳng có con chó nào, cửa nhà thì mở toang. Tấm lưới cửa cũi chó bị vênh ra ngoài, như thể ai đó đã tựa vào đó liên tục hàng mấy tháng trời.
Căn nhà không người ở mà Kumiko nói với tôi nằm ngay sau khoảnh sân có cái chuồng chó kếch xù kia. Chỉ cần liếc qua cũng biết căn nhà này không có người ở đã khá lâu rồi. Đó là một căn nhà hai tầng trông cũng mới, nhưng mấy cánh cửa chớp bằng gỗ trông lại quá ư cũ kỹ, chấn song bên ngoài các cửa sổ trên tầng hai phủ đầy gỉ sét. Căn nhà có một khu vườn nhỏ xinh xinh, trong đó hiển nhiên là có bức tượng chim. Tượng đặt trên một cái bệ cao ngang ngực, xung quanh cỏ dại um tùm. Đầu mút những nhánh xiêm gai vàng 1 gần như bén tới chân chim. Con chim - tôi chịu không đoán nổi giống chim gì - giang rộng cánh như thể muốn thoát khỏi chốn khó ưa này càng nhanh càng tốt. Ngoài con chim ra chẳng còn vật trang trí nào khác trong khu vườn. Dăm chiếc ghế nhựa không biết tự đời thuở nào đứng chỏng chơ ở vách tường, cạnh đó là một bụi đỗ quyên phô những đóa hoa đỏ tươi, màu sắc có vẻ là lạ, không thực. Còn lại toàn là cỏ dại.
Tôi tựa vào hàng rào mắt cáo ngang ngực, ngắm khu vườn một hồi lâu. Chốn này hẳn là thiên đường cho lũ mèo, nhưng chẳng thấy mèo đâu cả. Điểm xuyết vào khung cảnh chỉ có tiếng kêu đều đều của một con bồ câu đơn độc vắt vẻo trên chiếc ăngten truyền hình. Bóng của con chim đá đổ lên mặt cỏ dưới chân bệ tượng, bị cắt làm hai mảnh.
Tôi rút trong túi quần ra một viên kẹo chanh, bóc giấy gói rồi cho vào mồm. Tôi từng coi việc nghỉ làm ở công ty là một cơ hội để bỏ thuốc lá, nhưng bây giờ đi đâu tôi cũng không thể thiếu mấy viên kẹo chanh. Kumiko bảo tôi nghiện kẹo chanh mất rồi và cảnh cáo rằng chẳng mấy chốc tôi sẽ sâu hết cả hàm răng, nhưng tôi không bỏ kẹo được. Trong khi tôi đứng ngắm khu vườn, con bồ câu đậu trên ăngten vẫn kêu gù gù, như một tay cạo giấy đóng số lên một tệp giấy. Tôi không biết mình đã đứng đó tựa rào trong bao lâu, nhưng tôi nhớ mình đã nhổ kẹo ra khi cảm thấy nó đã tan một nửa và lấp đầy miệng cái vị ngọt dinh dính. Tôi vừa chuyển cái nhìn sang bóng chim đá thì có cảm giác ai đó vừa gọi mình từ phía sau.
Tôi quay lại thì thấy một cô gái đừng trong khu vườn bên kia ngõ. Người cô nhỏ nhắn, tóc tết bím. Cô đeo kính râm thẫm, gọng màu hổ phách, mặc áo phông cộc tay màu xanh nhạt. Mùa mưa vẫn chưa dứt hẳn, thế mà cô đã kịp làm cho đôi tay mảnh dẻ của mình có một màu rám nằng mềm mại ưa nhìn. Cô đút một bàn tay vào túi quần soóc. Bàn tay kia đặt lên một cánh cổng hằng tre ngang thắt lưng xem ra chẳng càn được ai. Hai chúng tôi chỉ cách nhau chừng hơn một thước.
- Nóng quá, - cô bảo.
- Ừ, nóng, - tôi đáp.
Sau mẩu trao đổi ngắn ngủi này cô lại đứng đó nhìn tôi. Rồi cô móc trong túi ra một bao "Hope", rút một điếu, đút vào giữa miệng. Cô có cái miệng nhỏ, môi trên hơi vểnh. Cô quẹt diêm chấm thuốc. Khi cô khẽ nghiêng đầu, tóc cô lệch sang bên để lộ một chiếc tai có hình dáng tuyệt đẹp, nuột nà như vừa mới nặn, vành tai ánh lên vẻ dịu dàng của lớp lông tơ.
Cô búng que diêm đi rồi chúm môi phà khói. Đoạn, cô nhìn lên tôi như thể đã quên mất là có tôi ở đó. Tôi không nhìn thấy mắt cô sau cặp tròng thẫm của chiếc kính râm.
- Anh sống gần đây à? - cô hỏi.
- Ừ, - tôi muốn chỉ về phía nhà mình, nhưng để tới được đây tôi đã len lách quá nhiều đến nỗi giờ tôi chịu không biết nhà mình ở hướng nào nữa. Tôi đành chỉ hú họa.
- Tôi đi tìm con mèo, - tôi vừa nói như để thanh minh vừa chùi lòng bàn tay mướt mồi hôi vào quần. - Nó đi vắng cả tuần rồi. Có người thấy nó quanh quẩn chỗ này.
- Con mèo trông thế nào?
- Mèo đực, to khỏe. Có vằn nâu. Chót đuôi hơi quặp.
- Tên gì?
- Noboru. Wataya Noburu.
- Không, không phải tên anh. Tên con mèo cơ.
- Thì tên con mèo đấy.
- Chà, ấn tượng quá!
- Thực ra đấy là tên ông anh vợ anh. Con mèo có gì đó giống ông ấy. Bọn anh lấy tên ông ấy đặt cho con mèo, để cho vui thôi mà.
- Con mèo giống ông ấy chỗ nào cơ?
- Anh không biết. Nhìn chung là thế. Dáng đi chẳng hạn. Hay là cái nhìn chả biểu lộ gì hết.
Lần đầu tiên cô mỉm cười, nụ cười khiến cô giống trẻ con hơn nhiều so với ấn tượng ban đầu. Cô không quá mười lăm, mười sáu tuổi. Môi trên cô vểnh thành một góc kì lạ. Tôi nghe như thấy giọng nói "Sờ em đi", giọng người đàn bà trong điện thoại. Tôi lấy mu bàn tay lau mồ hôi trên trán.
- Con mèo có vằn nâu, chóm đuôi hơi quăn, - cô gái nói. - À, nó có đeo vòng cổ không?
- Đeo vòng cổ màu đen, để trị bọ chét.
- Cô đứng ngẫm nghĩ chứng mươi, mười lăm giây, bàn tay vẫn đặt trên cánh cổng. Rồi cô vứt điếu thuốc đang hút dở xuống đất, lấy bàn chân đi xăngđan giẫm lên.
- Có lẽ em đã gặp một con mèo như thế, - cô bảo. - Em không biết đuôi có quặp không, nhưng con mèo vàng nâu, giống như cọp ấy, hình như có đeo vòng cổ.
- Em thấy khi nào?
- Thấy khi nào á? Chà... Mới ba bốn hôm trước thôi. Sân nhà em cứ như là nơi quá cảnh của tất cả mèo hàng xóm ấy mà. Chúng đi tắt qua nhà em từ nhà Takitani tới nhà Miyawaki.
Cô chỉ về phía căn nhà không người ở, nơi con chim đá vẫn đang giang cánh, cây xiêm gai vàng đang đón nắng hè và con bồ câu vẫn tiếp tục gù gù đơn điệu trên cần ăngten tivi.
- Em có ý này, - cô nói. - Sao anh không đợi ở đây? Tất cả lũ mèo sớm muộn gì cũng đi qua nhà em trên đường tới nhà Miyakawi. Anh cứ đi tới đi lui kiểu này thì coi chừng người ta gọi cảnh sát bắt đấy. Có người bị như thế rồi.
Tôi lưỡng lự.
- Đừng lo, - cô nói. - Ở đây chỉ có em thôi. Chúng mình cứ ngồi sưởi nắng, đợi con mèo ló mặt ra. Em sẽ nhìn giúp anh. Thị lực của em những hai mươi-hai mươi cơ đấy.
Tôi nhìn đồng hồ. Hai giờ hai mươi sáu phút. Những gì tôi phải làm hôm nay, từ giờ cho đến tối là mang đồ đến hiệu giặt và làm bữa tối.
Tôi bước qua cổng vào trong vườn, theo sau cô bé băng qua bãi cỏ. Chân phải cô hơi khập khiễng. Cô đi vài bước rồi dừng, quay lại nhìn tôi.
- Em bị ngã xe máy từ ghế sau, - cô nói như thể chuyện ấy chẳng có gì quan trọng.
Nơi rìa bãi cỏ có một cây sồi lớn. Dưới bóng cây có hai ghế xếp bằng vải bạt, trên một chiếc có trải tấm khăn tắm màu xanh dương. Trên chiếc ghế kia lỉnh kỉnh một bao "Hope""chưa mở, cái gạt tàn, chiếc bật lửa, một cuốn tạp chí, một chiếc máy nghe nhạc ngoại cỡ. Máy đang phát một bản hard rock âm lượng không to lắm. Cô bé tắt nhạc rồi trút hết mớ đồ đạc trên chiếc ghế thứ hai xuống cỏ để lấy chỗ cho tôi. Ngồi trên chiếc ghế này tôi thấy rõ khoảng sân căn nhà không người ở bên kia - con chim đá, cây xiêm gai vàng, hàng rào mắt cáo. Hẳn là cô bé đã quan sát tôi suốt cả thời gian tôi đứng ở bên kia.
Vườn nhà này lớn thật. Có một bãi cỏ rộng dài thoai thoải, đó đây có mấy khóm cây. Bên trái hai chiếc ghế là một hồ nước to mép bằng bê tông, phơi cái đáy cạn khô dưới nắng. Trông cái màu xanh xanh thì đủ biết đã bao lâu hồ không có nước. Chúng tôi ngồi xoay lưng lại căn nhà thấp thoáng sau màn cây. Nhà không lớn, kiến trúc chẳng cầu kỳ. Chỉ khu vườn thênh thang được chăm sóc cẩn thận là nom bề thế mà thôi.
- Vườn rộng quá, - tôi vừa nói vừa nhìn quanh. - Rộng thế này thì chăm sóc cũng mệt.
- Hẳn rồi.
- Hồi bé anh có làm việc cho một công ty chuyên xén cỏ thuê.
- Thế à? - rõ là cô bé chẳng quan tâm gì đến chuyện cỏ kiếc.
- Em luôn ở đây một mình à? - tôi hỏi.
- Vâng, lúc nào cũng một mình. Trừ một bà đến mỗi sáng và chiều, dọn dẹp ấy mà. Còn lại thì suốt ngày chỉ mình em thôi. Anh muốn uống gì lạnh không? Nhà có bia đấy.
- Không, cảm ơn.
- Thật á? Đừng khách sáo đấy nhé.
Tôi lắc đầu.
- Em không đi học à?
- Thế anh không đi làm à?
- Có việc gì làm đâu mà đi.
- Thất nghiệp à?
- Đại loại thế. Anh mới thôi việc vài tuần trước.
- Trước anh làm gì?
- Anh là trợ lý luật sư. Anh đến các cơ quan chính phủ để lấy tài liệu, sắp xếp hồ sơ đâu vào đó, kiểm tra các tiền lệ pháp lý tiến hành thủ tục tố tụng... kiểu kiểu thế.
- Nhưng anh thôi việc rồi.
- Ừ.
- Vợ anh có việc làm không?
- Có.
Con bồ câu ở khoảnh sân bên kia chắc đã thôi gù gù mà bay đi nơi khác. Đột nhiên tôi nhận thấy một sự im lặng chết chóc bao phủ quanh tôi.
- Kia là chỗ lũ mèo hay qua lại, - cô nói, tay chỉ về phía đằng kia bãi cỏ. - Anh có thấy cái máy đốt rác trong sân nhà Takitani không? Chúng nó chui ra từ dưới hàng rào ngay ở chỗ ấy, đi qua bãi có, rồi chui qua cổng sang mảnh sân bên kia. Lần nào cũng đúng lộ trình ấy.
Cô lật kính lên trán, nheo mắt nhìn khu vườn rồi kéo kính xuống, phà ra một làn khói. Trong khoảng thời gian đó tôi kịp thấy cô có một vết xước dài khoảng năm phân gần mắt trái, loại vết xước có khả năng để sẹo suốt đời. Chiếc kính râm hẳn là để che vết xước ấy. Khuôn mặt cô bé không phải là đẹp lắm nhưng có cái gì đó thật quyến rũ, có thể là cặp mắt sống động hay đôi môi hình dáng khác thường.
- Anh có biết nhà Miyakawi không? - cô hỏi.
- Chả biết gì cả, - tôi đáp.
- Gia đình họ từng sống trong căn nhà không có người ở kia. Gia đình rất nền nếp. Họ có hai cô con gái, cả hai đều học trường tư dành cho nữ sinh. Ông Miyakawi là chủ mấy cái nhà hàng.
- Sao họ không ở đó nữa?
- Có lẽ vì ông ấy nợ nần. Họ bỏ trốn, biến mất vô tung tích chỉ trong một đêm. Đâu như một năm trước. Họ bỏ lại căn nhà, mặc cho cỏ dại và lũ mèo. Mẹ em cứ than phiền suốt.
- Có nhiều mèo đến thế sao?
Vẫn ngậm điều thuốc trong miệng, cô bé ngẩng lên nhìn trời.
- Đủ thứ trên đời. Con thì trụi lông, con thì chột mắt... ở cái chỗ trước kia là con mắt giờ chỉ còn cục thịt. Eo ôi!
Tôi gật đầu.
- Em có người bà con mỗi bàn tay đều có sáu ngón. Chị ấy lớn hơn em một chút thôi. Bên cạnh ngón út chị ấy lại có thêm một ngón thừa, như ngón tay trẻ sơ sinh ấy. Chị ấy biết cách gập nó lại nên hầu như không ai nhận thấy cả. Mà chị ấy đẹp lắm cơ.
Tôi lại gật.
- Anh nói thử xem, đó có phải là do di truyền không? Gọi thế nào ấy nhỉ... từ trong huyết thống ấy mà?
- Anh không biết nhiều lắm về di truyền.
- Cô ngừng nói. Tôi mút viên kẹo chanh và chú mục vào lối đi của lũ mèo. Nãy giờ chẳng thấy con mèo nào cả.
- Thực tình anh không muốn uống gì à? - cô hỏi. - Em đi lấy Coca đây.
Tôi nói tôi không cần uống gì cả.
Cô đứng dậy khỏi ghế và biến mất sau hàng cây, chân phải hơi khập khiểng. Tôi nhặt tờ tạp chí từ dưới cỏ lên, lật lật các trang. Hoàn toàn bất ngờ, tôi nhận ra đó là một tạp chí dành cho nam giới, loại nguyệt san bìa láng. Trên trang ảnh là một ả ngồi ghế, hai chân dạng rộng thành một góc kỳ quái, quần bó chẽn mỏng dính phô ra toàn bộ chỗ kín với lớp lông đen nhánh. Tôi thở dài đặt tạp chí xuống, khoanh tay lên ngực, lại chú mục vào lối đi của lũ mèo.
Mãi rất lâu sau cô bé mới trở lại, tay cầm cốc Coca. Cái nóng *********** chiều đang hành hạ tôi. Ngồi dưới nắng, tôi nghe đầu mình cứ ong ong. Tôi hoàn toàn không muốn nghĩ gì hết.
- Nói em nghe, - cô tiếp tục đề tài bỏ dở. - Nếu anh yêu một cô gái nhưng hóa ra cô ấy có những sáu ngón tay thì anh sẽ làm gì?
- Đưa cô ấy tới rạp xiếc, - tôi đáp.
- Thật à?
- Không, dĩ nhiên là không, - tôi nói. - Đùa thôi mà. Chắc là chuyện ấy chẳng làm anh bận tâm lắm đâu.
- Cho dù con cái anh có thể dũng bị do di truyền?
Tôi nghĩ một chút rồi mới trả lời.
- Không, thực tình anh nghĩ là sẽ không bận tâm về chuyện đó mà. Thừa một ngón tay thì đã sao?
- Thế nếu cô ấy có bốn vú?
Tôi lại phải nghĩ một hồi.
- Anh không biết.
Bốn vú? Cứ cái đà này thì nói mãi không hết. Tôi quyết định chuyển đề tài.
- Em bao nhiêu tuổi?
- Mười sáu. Mới đây thôi là sinh nhật tròn mười sáu của em đấy. Em vừa lên năm đầu trung học đệ nhị cấp.
- Em nghỉ học lâu chưa?
- Nếu em đi nhiều thì chân vẫn đau. Em lại còn bị vết xước gần mắt nữa. Trường em họ nhiễu sự lắm. Người ta mà biết em bị ngã xe máy thì sẽ bàn tán vào chẳng thiếu chuyện gì. Thành thử em nghỉ ốm. Em được nghỉ trọn một năm nhé. Chả việc gì phải vội lên lớp cả.
- Ừ thì thế.
- Thì thế là sao? Vừa rồi anh bảo là cô gái có sáu ngón thì anh vẫn lấy, nhưng có bốn vú thì không...
- Anh không nói vậy. Anh chỉ bảo là anh không biết.
- Anh không biết gì nào?
- Anh không biết - ý anh là khó tưởng tượng được chuyện ấy.
- Một cô gái có sáu ngón tay thì anh hình dung được chứ?
- Chắc là được.
- Thế sao bốn vú thì lại không? Có gì khác nhau nào?
Tôi lại phải nghĩ thêm một hồi nữa, nhưng vẫn không tìm ra câu trả lời.
- Em hỏi nhiều quá phải không?
- Người ta bảo em vậy à?
- Thỉnh thoảng.
Tôi lại quay về phía lối mèo đi. Tôi đang làm cái quái gì ở đây vậy?
Tự nãy đến giờ chẳng có con mèo nào ló mặt. Tay vẫn khoanh trước ngực, tôi nhắm mặt lại chừng ba mươi giây. Tôi nghe mồ hôi túa ra khắp mình khắp mẩy. Ánh mặt trời đổ lên tôi với một sức nặng kỳ lạ. Mỗi khi cô gái di chuyển cốc Coca, những mẩu nước đá lại kêu lanh canh như cái lục lạc buộc cổ bò.
- Nếu anh buồn ngủ thì ngủ đi, - cô thì thầm. - Con mèo xuất hiện em sẽ gọi anh.
Mắt vẫn nhắm, tôi lẳng lặng gật đầu. |
|