Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 4098|Trả lời: 26
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại - Xuất Bản] Chỉ Gọi Tên Em | Thái Trí Hằng [Hoàn]

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Đăng lúc 29-5-2013 16:27:34 | Chỉ xem của tác giả Trả lời thưởng |Xem thứ tự |Chế độ đọc
CHỈ GỌI TÊN EM






Tên tác phẩm: Chỉ gọi tên em
Tác giả: Thái Trí Hằng
Dịch giả: Nguyễn Tú Uyên
Công ty phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản: Nhà xuất bản thời đại
Độ dài: 16 chương
Thể loại: Tiểu thuyết
Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành
Nguồn: Tự type.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

27#
Đăng lúc 23-6-2013 15:09:33 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 16


Noãn Noãn lại đi chiếc xe màu trắng, tôi xếp va li vào cốp sau, đóng nắp cốp lại, đột nhiên cảm thấy lạnh.

“Hóa ra đang là mùa đông” tôi nói.

“Đúng vậy.” Noãn Noãn nói, “lên xe thôi.”

Máy sưởi trong xe rất ấm, mới ngồi chưa đến nửa phút tôi đã phải cở áo khoác.

Thêm ba phút nữa, đến áo len cũng phải cởi ra luôn.

Noãn Noãn chỉ cười, không giải thích vì sao mở máy sưởi lớn thế, tôi cũng không hỏi.

Đường Nhị Hoàn thông thoáng bất ngờ, xe vừa tới giao lộ cũng thường gặp ngay đèn xanh.

Bắc Kinh dường như rất hoan nghênh tôi ra về.

Noãn Noãn nói em đã mua ít đồ ăn vặt Bắc Kinh, để tôi mang lên máy bay ăn.

“Lát đừng quên mang đấy” Noãn Noãn nói.

Tôi lập tức bỏ vào ba lô, vì hẳn lát nữa sẽ rất dễ quên này quên nọ.

“Lương Lương,” Noãn Noãn nói, “thương lượng với anh một chuyện được không?”

“Ừ.” Tôi gật đầu.

“Lát nữa...” Noãn Noãn bất ngờ lắp bắp, “lát nữa tới sân bay, em không xuống xe đâu.”

“Em sợ rơi nước mắt à?” tôi nói.

“Con gái Đông Bắc không khóc vào mùa đông” Noãn Noãn nói.

“Hở?”

“Trời -30 độ mà khóc, nước mắt còn chưa xuống tới cằm đã đóng thành băng rồi” Noãn Noãn nói. “Cảm giác đó chẳng dễ chịu gì.”

“Chẳng trách con gái Đông Bắc đặc biệt kiên cường” tôi nói.

“Nhưng mùa hè thì nước mắt rơi ác liệt,” Noãn Noãn cười cười, “bù lại mà”

“Vì thế...” Noãn Noãn nói, “lát nữa em không thể xuống xe đâu.”

“Vì bây giờ là mùa đông?”

“Đúng thế” Noãn Noãn nói. “Nhưng trong xe bật máy sưởi mức nóng nhất, giống như mùa hè.”

Tay Noãn Noãn siết chặt vô lăng, mắt đăm đăm hướng về phía trước, nhìn nghiêng có vẻ nghiêm túc.

“Anh không muốn thấy em khóc đâu” tôi nói. “Nếu lại tới Bắc Kinh, anh sẽ chọn tới vào mùa  đông.”

“Lại là có lẽ vào mùa đông hả?” Noãn Noãn nói.

“Ừ,” tôi nói, “cuộc hẹn lớn, quả nhiên vẫn phải vào mùa đông.”

“Không phải lúc này, không biết khi nào, anh nghĩ có lẽ vào mùa đông” Noãn Noãn khẽ ngâm nga.

“Đúng thế” tôi nói.

Sau đó tôi và Noãn Noãn đều im lặng.

Ngoài cửa xe là đường cao tốc sân bay, dãy bạch dương hai bên đường dã nhuộm màu tuyết trắng.

Nhớ lúc mới tới vài hôm trước, hàng cây nhìn hãy còn e ấp thẹn thùng, mà giờ đây đã giàn dụa nước mắt.

Noãn Noãn là con gái Đông Bắc, giống cây bạch dương khiết bạch thẳng tắp.

Bạch dương sinh trưởng ở xứ lạnh, hẳn vốn rất kiên cường.

Cũng chỉ có sự kiên cường của bạch dương, mới có thể khiến nó đứng vững tại đây, vì mỗi ngày, bạch dương phải dõi theo đưa tiễn biết bao người chia ly

Cửa số 2 của sân bay Thủ Đô đã ở ngay trước mắt, đến nơi rồi.

Noãn Noãn táp lại lề đường dừng xe, mở nắp cốp, rồi nói: “Từ sau vụ 11/9 của Mỹ, kiểm tra anh ninh trở nên chặt chẽ hơn, động tác của anh phải nhanh một chút, khỏi lỡ chuyến bay.”

“Ừ.” Tôi mặc lại áo len và áo khoác, mở cửa xe, ra sau cốp xe lấy hành lý.

“Lần sau tới Bắc Kinh nhớ báo cho em đấy” tiếng Noãn Noãn từ trong xe vọng ra.

“Em cũng thế.” Tôi kéo va li đến cửa xe trên, cúi người nói: “Lần sau tới Đài Loan, nhớ báo cho anh.”

“Em đến lần trước còn không có, đâu ra lần sau?” Noãn Noãn cười.

Tôi lại chẳng cười nổi.

Vừa ra khỏi xe có máy sưởi, chỉ cảm thấy lạnh.

Noãn Noãn vẫy vẫy tay, đến một tiếng tạm biệt cũng không nói đã phóng xe đi rồi, tôi càng thấy lạnh.

Dù là ở Cáp Nhĩ Tân cũng không bằng lúc này, cảm thấy mọi tế bào trong cơ thể đều đang run lên.

Kéo va li đi được mấy bước, đầu óc tôi trống không, toàn thân không còn chút sức lực.

Tôi buông tay, dựa lưng vào tường, nhắm mắt lại.

Chuẩn bị tiến nhận sự thực Noãn Noãn đã không còn bên cạnh.

Lần này tới Bắc Kinh bốn đêm,chỉ có hai đêm là ở khách sạn, hai đêm còn lại đều ở trên tàu từ Bắc Kinh tới Cáp Nhĩ Tân từ Cáp Nhĩ Tân về Bắc Kinh.

Tô Châu, Hàng Châu, Thượng Hải, Bắc Kinh, Cáp Nhĩ Tân, dường như tôi cứ bôn ba suốt.

Muốn gặp Noãn Noãn, 3000 cây số chỉ là một cái chớp mắt; muốn rời xa Noãn Noãn, một bước cũng đã quá xa xôi.

Tôi sắp quay về Đài Loan, quay về với thế giới 0 và 1, chiến đấu với những con số tiết kiệm.

Rồi nửa đêm về nhà, những ký ức về Noãn Noãn lại đột nhiên ùa đến, biết sẽ phải làm sao đây?

Có lẽ tôi sẽ làm những chuyện ngốc nghếch, hoặc những chuyện thiếu lý trí, nhiều kích động và nhiệt tình.

Nhiệt tình có lẽ chưa từng lụi tắt, nhưng những vấn đề của hiện thực lại không ngừng thách thức lòng nhiệt tình của tôi.

Cũng giống như tỷ giá 1:4 giữa nhân dân tệ và Đài tệ, tôi cố tìm ra tỷ số giữa nhiệt tình và hiện thực, giữa Đài Loan và Bắc Kinh.

Cũng chính là, tuy rằng nhiệt tình vẫn còn, nhưng trong lòng luôn hiện lên một câu hỏi: năng lượng sản sinh ra khi đốt cháy nhiệt tình có đủ để xích gần khoảng cách, đưa tôi lại gần Noãn Noãn hay không?

Tôi có thể tính ra khoảng cách từ Bắc Kinh tới Hồng Kông, từ Hồng Kông tới Đài Bắc, những con số này không hề lớn; nhưng khoảng cách xa nhất giữa tôi và Noãn Noãn, là eo biển Đài Loan.

Đó không phải là khoảng cách có thể dùng độ dài, độ rộng hay độ sâu đo đếm được.

Đem sự thuần khiết đang ngày một hao mòn của tôi ra đóng một con thuyền, liệu có thể ra khơi vượt qua eo biển Đài Loan được chăng?

Người Đài Loan gọi một nửa kia là bạn đời, người Bắc Kinh lại gọi là người yêu.

Tương lai tôi sẽ phải tìm lấy một bạn đời cho mình, Noãn Noãn cũng sẽ phải tìm một người yêu thuộc về em.

Nếu như ngay đến nửa kia chúng tôi cũng gọi không giống nhau, vậy thì thật khó để thành nửa kia của nhau rồi.

Di động đột nhiên đổ chuông.

Màn hình hiển thi lên hai chữ “Noãn Noãn”. Tôi kinh ngạc, vội vàng ấn nút nghe.

Tôi xúc động kêu lên: “Noãn Noãn!”

“Lương Lương!” Là giọng của Noãn Noãn. “Mau ra ngoài cửa sân bay đi, tuyết rơi rồi!”

Ngẩng đầu nhìn, sắc trời hơi sầm sì, gió khẽ nổi lên, những chấm trắng nhỏ bay lượn tung tăng trong gió.

“Anh nhìn thấy rồi” tôi nói.

“Sao nhanh thế?”

“Vì anh vẫn chưa vào sân bay.”

“Hả?”

Tôi bất giác nhìn quanh quất, cứ ngỡ Noãn Noãn đang trốn ở đâu đấy chỉ chờ tôi lơ là liền bất ngờ xuất hiện.

Những chỉ nhìn thấy người người tấp nập lấy hành lý khỏi những chiếc xe đang đỗ, đi vào sân bay, theo một hướng thẳng tắp, đơn điệu.

Tuyết trên không trung bay theo hình vòng cung, rơi xuống đất vẫn không an phận còn nhảy thêm mấy bước nữa, dường như không cam tâm dừng lại.

“Em vẫn đang lái xe à ?”

“Đương nhiên rồi, em còn phải trả xe về công ty nữa.”

Lòng tôi trùng xuống, tuyết trên mặt đất cuối cùng cũng bỏ cuộc nằm im thin thít.

“Em gọi tới, chỉ để bảo anh tuyết rơi rồi thôi à?”

“Anh thích tuyết rơi còn gì?” Noãn Noãn nói, “em muốn nghe giọng anh vui mừng.”

“Anh...” ngừng một lúc, tôi lấy lại tinh thần, nói: “rất vui.”

“Đây là giọng vui mừng à? Nghe có vẻ không giống.”

“Vì lạnh đấy.”

“Lạnh á?”

“Ừ.”

Noãn Noãn khựng lại, mười giây sau mới nói: “Thế thì đi vào đi. Cảm lạnh thì tệ lắm.”

“Anh ngắm thêm một lúc đã.” Tôi cố nặn ra tiếng cười, “dù gì về Đài Loan cũng sẽ không được thấy nữa.”

Tuyết đã lớn hơn, gió cũng mạnh hơn, mặt đất càng lúc càng trắng, người càng lúc càng lạnh.

“Anh đi vào đi” Noãn Noãn nói.

Kéo cao cổ áo, rụt rụt cổ vào, tay trái cầm điện thoại tê cứng bèn cho tay phải thay ca.

“Anh...” giọng tôi hơi run run, “có thể gọi tên em không?”

“Anh lạnh quá hóa đần đấy à?” Noãn Noãn bật cười. “Đương nhiên là được.”

“Noãn Noãn, Noãn Noãn, Noãn Noãn.”

“Có tác dụng không?”

“Cực kì có tác dụng” tôi nói.

“Không phải nói bừa chứ?”

“Không. Là nói gọn đấy.”

“Lại nói linh tinh.”

“Gọi thêm vài tiếng nữa được không?”

“Ừ.”

“Noãn Noãn, Noãn Noãn, Noãn Noãn...” Gọi đến tiếng thứ bảy, không cẩn thận, mắt đã bắt đầu ướt ướt, cổ họng nấc nghẹn, bèn dừng lại.

Noãn Noãn hẳn cũng đã nhận ra, không nói thêm gì nữa.

“Đỡ hơn chưa?” Hồi lâu sau, Noãn Noãn mới lên tiếng.

“Ừ.” Tôi lau khóe mắt, lấy hết sức hít vào một hơi gió lạnh. “Ấm hơn nhiều rồi.”

“Đây chính là ưu điểm của tên em đấy, gọi mấy tiếng là không thấy lạnh nữa.”

“Anh rất cảm kích bố em đã đặt một cái tên hay như thế.”

“Em cũng cảm kích anh đã không chê.”

“Em đã nghe có ai chê kim cương sáng quá chưa?”

“Cái này quả thực chưa nghe bao giờ” Noãn Noãn khẽ cười.

Tôi phải đi rồi, còn không vào làm thủ tục lên máy bay thì không đi được mất.

“Noãn Noãn, khi nào mới được gặp lại em đây?” tôi nói.

“Anh nói xem?”

“Có lẽ một tháng, có lẽ một năm, có lẽ mười năm, có lẽ...” tôi ngừng lại, gắng dằn lòng không thốt ra hai chữ “kiếp sau”.

“Có lẽ là một phút nữa” Noãn Noãn nói.

“Một phút?”

Có lẽ vì tâm trạng lúc bấy giờ, tôi loáng thoáng nghe thấy tiếng cười của Noãn Noãn.

“Hi, Lương Lương.”

“Ừ?”

“Lương Lương!”

Tôi cảm thấy âm thanh này có chút gì kỳ kỳ, không phải giọng Noãn Noãn thay đổi, mà hình như tôi đang nghe thấy tiếng vọng.

Âm thanh trong điện thoại cộng hưởng cùng tiếng vọng trong không khí, giống như đứng giữa đá Thiên Tâm trong Thiên Đàn.

“Lương Lương!” Lần này âm thanh nghe càng rõ ràng hơn, tiếng vọng át hẳn tiếng trong điện thoại.

Tôi ngẩng đầu lên, chiếc xe trắng của Noãn Noãn đột nhiên trờ tới, xuất hiện cách chừng mười mét, về phía trái.

Đường ô tô sát sân bay đã bị chật kín, xe Noãn Noãn đi từ trái qua phải, chầm chậm đi qua trước mắt tôi.

“Hi! Lương Lương!” Noãn Noãn hạ kính xe xuống, tay phải buông vô lăng cố gắng thò ra ngoài cửa xe, hét lớn: “Lương Lương! Tạm biệt!”

“Noãn Noãn!” Tôi nhoài người, không màng đến điện thoại rơi khỏi tay, chạy theo xe em. “Noãn Noãn!” Mới chạy được tám bước, đã bị một chiếc ô tô màu đen chặn ngang đường.

“Noãn Noãn!” hai tay tôi bắc lên miệng làm loa, gọi lớn.

Noãn Noãn không dừng xe, chậm rãi theo chiếc xe rời khỏi đời tôi.

“Lương Lương...” tiếng Noãn Noãn mỗi lúc một xa, mỗi lúc một yếu. “Tạm biệt...”

Tôi lách qua chiếc xe đen, xông ra giữa dòng xe, ra sức đuổi theo cái bóng trắng xa hút.

“Noãn Noãn!”  Tôi lấy hét sức hét lớn: “Anh nhất định đưa em tới Noãn Noãn!”

Đột nhiên tôi cảm thấy một cảm giác bi thương mơ hồ.

Giống như nắm lấy tay người cha già sắp lâm chung, nói với ông rằng những ngày sau con sẽ ngoan ngoãn nghe lời.

Đó chỉ là một lời hứa vốn không thể thực hiện nổi, nhưng lại muốn dùng hết sức lực trong đời giữ lấy.

Dưới bầu trời lất phất tuyết bay, trải rộng tầm mắt chỉ là một dải trắng mênh mang, tôi đứng lặng trong tuyết, không biết nên gọi Noãn Noãn thế nào?

Tôi và Noãn Noãn đều là những người bình thường, có những giận hờn buồn vui đơn thuần, cũng biết rằng cần phải theo đuổi và nắm lấy hạnh phúc.

Có thể có chút ít can đảm đối diện với khó khăn, nhưng lại chẳng có can đảm hơn người để phá vỡ hay xoay vần khó khăn ấy.

Dòng chảy thời đại sẽ cuốn tôi tới nơi tôi thuộc về, Noãn Noãn cũng vậy.

Chúng tôi sẽ chỉ đứng nhìn nhau từ xa, mà không có sức bơi về phía nhau, chỉ có thể lững lờ buông trôi, cho đến khi chẳng còn nhìn thấy nhau nữa.

Trong quá trình trôi dạt, tôi sẽ thường xuyên ngoái đầu nhìn lại nơi tôi và Noãn Noãn từng gặp nhau.

Tôi thấy rõ rồi, đó là trong nhà hàng, bên ngoài có bảng hiệu viết rõ: “Món Hồ Bắc chính cống.”

Sau đó tôi nghe giọng Noãn Noãn.

“Hi, em là Noãn Noãn, còn anh?”


HẾT.

Bình luận

Hoàn rồi, thank bạn nhiều nha :X Đọc thôi!  Đăng lúc 23-6-2013 05:03 PM
Bên đây cũng sửa chữ màu đỏ thành màu khác giúp mình. Cám ơn bạn :)  Đăng lúc 23-6-2013 03:32 PM

Rate

Số người tham gia 1Sức gió +5 Thu lại Lý do
HappyOneday + 5 Cám ơn bạn ^^

Xem tất cả

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

26#
Đăng lúc 23-6-2013 15:08:20 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 15


8 giờ 32 phút tối, tàu hỏa khởi hành từ Cáp Nhĩ Tân, 7 giờ 7 phút sáng hôm sau, tàu tới Bắc Kinh, vẫn phải ngồi 10 tiếng 35 phút đồng hồ.

Hệt như lúc từ Bắc Kinh tới Cáp Nhĩ Tân, chỉ sai lệch có hai phút.

Tại sao tàu không chạy vào lúc tám rưỡi như bình thường mà phải là 8 giờ 32 phút, tôi thật không sao lý giải nổi.

Nhưng cũng may mà dôi ra hai phút này, vì tôi và Noãn Noãn ham chơi, vào tới sân ga đã là tám rưỡi rồi.

Vé tàu về đã mua từ trước, vẫn là giường nằm mềm tầng dưới.

Lần này cùng cabin với chúng tôi là hai cô gái Bắc Kinh tới Cáp Nhĩ Tân du lịch, hình như vừa tốt nghiệp đại học chưa được bao lâu.

Chính vào độ tuổi đi giày cao gót bước chân vẫn còn lúng túng, thông thường con gái ở độ tuổi này là thu hút nhất.

Các cô rất nhiệt tình, chủ động bắt chuyện với Noãn Noãn, Noãn Noãn còn giới thiệu tôi từ Đài Loan tới.

Hai cô gái, một cao một gầy, lập tức từ giường trên trèo ngay xuống dưới, đến trước mặt tôi.

“Em chưa được tận mắt nhìn thấy người Đài Loan bao giờ, phải nhìn cho kỹ” cô cao nói.

“Anh nói câu gì nghe coi” cô gầy nói.

“Xin chào” tôi nói.

“Nói câu nào dài dài vào” cô cao nói.

“Lạnh, quá lạnh, Cáp Nhĩ Tân thực sự quá lạnh” tôi nói.

Hai người bọn họ rộ lên cười ngặt nghẽo, như sắp bay cả nóc tàu.

“Đừng cười nữa,” tôi nói, “mọi người sẽ nghĩ cabin chúng ta xảy ra án mạng đấy.”

Bọn họ lại càng cười lớn, đồng thanh nói: “Người Đài Loan nói chuyện thú vị thật.”

Hai cô gái này hẳn vừa trải qua một cuộc ngao du vui vẻ ở Cáp Nhĩ Tân, tâm trạng đến giờ vẫn rất phấn khích.

Ríu ra ríu rít nói mãi không chán, còn mang cả bộ bài ra rủ tôi và Noãn Noãn cùng chơi.

Noãn Noãn xẻ “đại liệt ba” ra, bốn người chia nhau ăn, mới ăn hết một phần ba đã no rồi.

“Đại liệt ba” ăn có vẻ hơi cứng, vị hơi chua, nhưng vẫn thơm ngào ngạt.

Khó khăn lắm cuối cùng hai cô gái cũng yên tĩnh, tôi ra ngoài cabin hóng gió.

Tàu hỏa vẫn phát ra những tiếng xình xịch thấp trầm đều đặn, chạy thẳng về Bắc Kinh.

Trời vừa sáng là liền tới Bắc Kinh, tôi còn ở lại Bắc Kinh một ngày sau mới về Đài Loan.

Hiện thực đột nhiên ập đến khiến lòng tôi chùng hẳn xuống, rũ tàn những bông hoa rực rỡ trong lòng.

Công việc mấy ngày bê trễ có thể cứu vãn được, nhưng về rồi lại phải đối mặt với nỗi nhớ nhung vô tận.

Phải làm sao đây?

“Anh đang nghĩ gì thế?” Noãn Noãn cũng ra ngoài cabin.

“Không có gì” tôi nói.

Noãn Noãn nhìn tôi rồi quay đi, hỏi: “Lên chuyến bay lúc mấy giờ?”

“Sáng ngày kia, hơn 10 giờ.” Tôi cũng nhìn sang Noãn Noãn rồi quay đi.

Sau đó chúng tôi im lặng.

“Noãn Noãn,” tôi phá vỡ không khí yên tĩnh, “anh muốn hỏi em một câu hỏi uyên thâm.”

“Hỏi đi” Noãn Noãn nói.

“Cuộc sống của em có tốt không?”

“Câu này quả thực quá uyên thâm.” Noãn Noãn bật cười. “Cũng tạm ổn. Còn anh?”

“Cuộc sống của anh đều đều bất biến, có hơi lỗi thời” tôi nói.

“Cuộc sống của phần lớn mọi người đều lỗi thời cả, làm gì có bao nhiêu người có cuộc sống tươi mới chứ?” Noãn Noãn nói.

“Có lý.” Tôi nói.

Noãn Noãn đột nhiên lấy trong túi ra một tờ giấy, nói: “Anh xem này.” Tôi nhìn sang, liền nhận ra đó là những chữ viết khi coi chữ trên phố Tô Châu năm ngoái.

“Sao lại ở chỗ em thế này?” tôi hỏi.

“Lúc đó sau khi ông lão đưa cho em, em định đưa trả tờ anh viết, nhưng cứ quên mất.”

Noãn Noãn lại lấy ra giấy trắng và bút. “Anh viết lại lần nữa xem. Ông lão đã nói, chữ viết có thể sẽ thay đổi.”

Tôi tìm quanh toa một chỗ bằng phẳng, viết lại lần nữa câu đối trong miếu Thành Hoàng ở Đài Nam.

“Chữ anh có vẻ hơi khác.” Noãn Noãn đối chiếu chữ trên hai tờ giấy, nói: “Ví dụ từ ‘ta’ này, nét móc không còn nhọn nữa, mà giống đường vòng cung hơn.”

Tôi cũng nhìn xem, quả thực đúng vậy. Điều này chắc có nghĩa là tôi đã khôn khéo hoặc tinh tế hơn rồi.

Một năm rưỡi bước vào trường đời, đi làm, giờ tôi đã biết phải tán dương sắc mặt và phong thái lãnh đạo rồi.

Noãn Noãn cũng viết lại câu đối trong đền thờ Vũ Hầu Thành Đô, tôi nhận thấy chữ Noãn Noãn viết gần như không có gì thay đổi.

Còn về cách bố trí hàng dọc với hàng ngang, cả tôi và Noãn Noãn đều không đổi, chữ cũng vẫn thẳng như thế.

Tôi vẫn có bó buộc trong lòng, Noãn Noãn trước sau vẫn thiếu dũng khí.

Tôi và Noãn Noãn hệt như Vạn Phúc Các, đầu tiên dựng xong tượng Phật Mại Đạt La, sau đó mới xây các cho phù hợp với tượng Phật; chẳng hề vắt óc suy nghĩ làm cách nào để thay đổi hoàn cảnh, đặt tượng Phật vào Vạn Phúc Các.

“Về tương lai, em có dự định gì không?” tôi hỏi.

“Cứ sống qua ngày thôi, còn dự định gì nữa?”

“Nói cũng phải” tôi nói. “Nhưng thỉnh thoảng ngẫm nghĩ, như vậy có lẽ quá bình thường.”

“Cứ để người khác theo đuổi cái không bình thường,” Noãn Noãn cười nói. “Khi phần lớn mọi người đều không bình thường, thì không bình thường chính là bình thường, còn bình thường lại trở thành không bình thường.”

“Em nhìn xa trông rộng đấy” tôi nói.

“Chỉ có thể như vậy thôi” Noãn Noãn nói.

Về hiện thực chia cách hai bờ, tôi và Noãn Noãn dường như đều muốn làm điều gì đấy, nhưng lại không muốn thay đổi điều gì.

“Chúng ta thật giống hai người trong chuyện Tiểu Tâm và A Lực” tôi nói.

“Tiểu Tâm và A Lực?” Noãn Noãn thắc mắc.

“Ừ,” tôi nói. “Tiểu Tâm mua một con cá, nhưng A Lực không muốn nấu.”

“Sau đó thì sao?”

“Không có sau đó nữa.”

“Hả?”

“Đây chính là Tâm có cá nhưng Lực không nấu, đọc chệch là tâm có cả nhưng lực không hậu *.
* Tâm có cả nhưng lực không hậu:  Lực bất tòng tâm.
Noãn Noãn trừng mắt, trên mặt lộ vẻ do dự không biết nên tức hay nên cười, cuối cùng cũng quyết định bật cười.

“Lương Lương,” Noãn Noãn nói, “thật không ngờ em lại có thể chịu đựng anh lâu đến thế.”

“Em vất vả rồi” tôi nói.

“Nếu như có một ngày trong tương lai, chúng ta gặp lại nhau, anh nhất định phải nhắc em nhớ, trên chuyến tàu từ Cáp Nhĩ Tân về Bắc Kinh, anh đã nói một câu đùa siêu siêu nhạt toẹt đấy.”

“Nhất định anh sẽ nhắc,” tôi nói, “thậm chí còn tặng thêm một câu đùa siêu siêu nhạt toẹt khác nữa cơ.”

“Hẹn thế nhé.” Noãn Noãn nhoẻn cười.

Tôi và Noãn Noãn chẳng có kế hoạch, dự định gì về tương lai, nhưng lại muốn ôm một niềm hy vọng.

Chúng tôi quay lại cabin, đèn đã tắt, hai cô gái Bắc Kinh kia chắc đã ngủ rồi.

Noãn Noãn nói khẽ chúc ngủ ngon, rồi chúng tôi ai nằm xuống giường người nấy.

Tôi nhắm mắt, bắt đầu hồi tưởng những chuyện sau khi tới Bắc Kinh.

Gặp gỡ ngắn ngủi, mà biệt ly lại quá dài, tôi phải cố nhớ lại mọi chuyện, vì sau này thời gian cần nương nhờ những dư vị này sẽ nhiều lắm.

Thời gian tí tách chảy qua, tiếng xình xịch lao về phía trước của con tàu vẫn đều đều bên tai, đây là tiền đề của cơn mất ngủ.

Tôi thở dài, rờ rẫm lần mò ra phía cửa, khẽ khàng mở cửa he hé, lách người chui ra.

Gặp ngay phải một bác trung niên nửa đêm vệ sinh, khiến tôi giật bắn cả mình.

Hai mắt bác ta lờ đờ, thần thái đờ đẫn, bước chân uể oải lại còn chao đảo trái phải theo nhịp tàu chạy.

Nếu như bạn đã từng xem bộ phim “Cấm vào nghĩa địa”, hẳn bạn cũng sẽ giống như tôi, cứ ngỡ bác ta là cương thi.

“Sao lại ra đây rồi?”

Tôi quay đầu lại, Noãn Noãn đang dụi dụi mắt.

“Anh không ngủ được” tôi nói.

“Thế em thức cùng anh” Noãn Noãn nói.

Khi một người con trai vì bạn gái mà cai thuốc lá, lại bắt đầu hút thuốc, thông thường mọi người sẽ ngạc nhiên hỏi: “Ấy? Không phải cậu cai thuốc rồi sao?”

Nhưng tôi và Noãn Noãn lại thuộc loại người đến một câu cũng không nói.

Bởi chúng tôi đều biết ý nghĩa đằng sau của việc người con trai hút thuốc trở lại.

Vì vậy tôi và Noãn Noãn không hề hỏi nhau lý do mất ngủ.

“Đến lượt em hỏi anh một câu uyên thâm” hồi lâu sau, Noãn Noãn nói.

“Ừ, hỏi đi” tôi nói.

“Vì sao anh không từ Tô Châu về luôn Đài Loan, mà còn qua Bắc Kinh làm gì?”

“Vì trong lòng luôn nhớ đến những chuyện xảy ra ở Bắc Kinh hè năm ngoái, nên anh đến Bắc Kinh thôi,” tôi nói.

“Sức hút Bắc Kinh lớn thật.” Noãn Noãn nhoẻn cười.

“Không phải là vì nhớ Bắc Kinh,” tôi nói, “mà vì nhớ một người.”

“Em có thể hỏi tiếp không?” Noãn Noãn nói.

“Không” tôi nói.

“Thế thì em không hỏi nữa.”

“Nhưng anh lại cứ muốn trả lời,” tôi nói. “Là vì nhớ Noãn Noãn, nên anh tới Bắc Kinh.”

Noãn Noãn không trả lời, chỉ im lặng dựa vào thành tàu, trên môi khẽ nở nụ cười.

“Em buồn ngủ rồi” Noãn Noãn nói.

“Em đi ngủ đi” tôi nói.

“Còn anh?”

“Anh không dịch chuyển được nữa, vì cơn sóng tương tư đã nhấn chìm anh rồi.”

“Nói gì thế.”

“A! Ngập đến mũi rồi, anh sắp không thở được nữa rồi.”

“Nhạt phèo” Noãn Noãn nói.

“Chết chìm rồi” tôi nói. “Cứu… tôi… với…”

“Đừng có làm trò lố ở đây.” Noãn Noãn kéo tôi trở lại cabin. “Ngủ mau.”

Về giường nằm, trong bóng đêm, mắt nhắm nghiền mà vẫn không muốn ngủ. “Lương Lương,” Noãn Noãn thì thào gọi.

“Ừ?”

“Đưa tay phải anh đây.”

Tuy không hiểu gì, nhưng tôi vẫn đưa tay phải ra, ngón út tay trái Noãn Noãn móc lấy ngón út tay phải tôi.

“Làm gì thế?” tôi hỏi.

“Không phải anh nói đã chết chìm rồi sao?” Noãn Noãn cười khe khẽ. “Em đành phải móc anh lên thôi.”

Trái tim tôi lại cảm thấy trào dâng một niềm ấm áp, cả người dần thả lỏng, mắt bắt đầu chùng xuống.

“Chúng ta đã móc tay thế này, thì làm luôn một cái hẹn đi,” Noãn Noãn nói.

“Hẹn?”

“Nếu như sau này anh ở Đài Loan mà mất ngủ, hãy nhớ đến đêm nay. Được không?”

“Ừ.”

“Ngủ ngon” Noãn Noãn nói.

Tay tôi và Noãn Noãn cũng tự nhiên buông xuống, nhưng ngón tay út vẫn giữ nguyên dấu móc.

Tôi biết sau khi tỉnh lại hai ngón út nhất định sẽ rời nhau, nhưng ít nhất trước khi chìm vào giấc ngủ, chúng vẫn ở trong trạng thái này.

Vậy là đủ.

Trời sáng, tàu hỏa đã đến ga Bắc Kinh.

Chẳng cần đến điện thoại báo thức, tiếng nói cười của hai cô gái Bắc Kinh giường trên đã đủ đánh thức tôi mười lần.

“Anh bạn Đài Loan, đến lúc nói lời tạm biệt rồi,” cô cao nói, “đừng khóc nhé.”

“Tuyệt đối đừng lưu luyến không nỡ rời chúng tôi nhé,” cô gầy nói. “Chúng tôi là những bông hoa không bao giờ quay đầu lại nhìn đâu.”

“Không phải không nỡ rời,” tôi nói, “mà là mong chẳng được.”

“Nói gì thế.” Noãn Noãn trừng mắt nhìn tôi.

Hai cô gái Bắc Kinh cười cười đi khỏi, bóng người đã mất hút mà tôi vẫn còn nghe thấy tiếng cười.

Vừa ra khỏi ga tàu, Noãn Noãn phải tới công ty bàn giao công việc, nói bao giờ xong sẽ tới tìm tôi rồi đi luôn.

Tôi nhìn theo Noãn Noãn mất hút giữa đám đông, trong lòng dâng lên một cảm giác cô đơn khó tả.

Nhưng tôi vẫn phải kiên cường đứng vững, duy trì nhịp thở, nhịp tim đều đặn, và khóe mắt khô cong.

Bởi vì tôi phải chuẩn bị trước, tập chịu đựng sức tấn công của sự chia ly này, tránh khỏi ngày mai chính thức công diễn, lại bị sức mạnh này quật ngã.

“Hi!” Đột nhiên có ai vỗ vào vai tôi, ngoảnh đầu lại, Noãn Noãn tủm tỉm cười đứng ngay sau lưng.

Tôi há hốc miệng, ngạc nhiên xen lẫn vui sướng.

“Đã đi tàu điện ngầm ở Bắc Kinh chưa?” Noãn Noãn nhoẻn miệng cười. “Chúng ta cùng đi.”

“Em…”

“Muốn cho anh một ngạc nhiên thú vị thôi mà” Noãn Noãn đắc ý nói.

Noãn Noãn dẫn tôi xuống bến tàu điện ngầm, lên tuyến số 2 rồi chuyển sang tuyến số 1, xuống tàu ở điểm Vương Phủ Tỉnh.

Lên khỏi bến tàu điện ngầm, thả bộ chậm rãi về khách sạn, chếch đối diện khách sạn có quán sữa đậu Vĩnh Hòa, chúng tôi cùng dừng lại đó ăn sáng.

“Sữa đậu Vĩnh Hòa rất nổi tiếng ở Đài Loan phải không?” Noãn Noãn hỏi. “Ở Bắc Kinh có nhiều chi nhánh lắm.”

“Ở Đài Loan, sữa đậu đều gọi là Vĩnh Hòa, quả bưởi đều gọi là Ma Đậu, thịt viên đều gọi là Tân Trúc.”

“Nói gì thế.”

“Ý là sữa đậu Vĩnh Hòa rất nổi tiếng” tôi nói.

Nhớ lại chuyện năm ngoái đi uống nước đậu, cũng đều là đậu mà sao vị sữa đậu có nhân tính hơn bao nhiêu, ít ra cũng không bắt bạn phải rèn luyện vị giác.

“Em thích nước đậu hay sữa đậu hơn?” tôi hỏi Noãn Noãn.

“Nước đậu” Noãn Noãn đáp.

“Người đẹp vẫn cứ là người đẹp,” tôi nói, “đến cả khẩu vị cũng khác người.”

“Anh thôi ngay” Noãn Noãn nói.

Ăn sáng xong, chúng tôi quay lại khách sạn Đài Loan, sau đó tôi lên phòng, còn Noãn Noãn ngồi taxi về công ty.

Tuy biết rõ rằng lần này hẳn không có khả năng nào nữa, nhưng trước khi bước vào thang máy tôi vẫn ngoảnh đầu lại xem Noãn Noãn có ở sau lưng khôngQuả nhiên không có.

Lê những bước nặng nề về phòng, đặt hành lý xuống, ngồi bên giường đờ đẫn.

Ý thức phải tìm việc gì đó để làm, tôi bèn đứng dậy đi vào phòng tắm tắm nước nóng.

Tắm xong lại ngồi bên gường đờ đẫn, rồi tiện thể nằm xuống.

Lúc tỉnh lại đã sắp 1 giờ chiều, kiểm tra điện thoại, chẳng có cuộc gọi nhỡ hay tin nhắn nào.

Từ sau khi xuống máy bay ba hôm trước, tôi thức dậy mở mắt, nhất định sẽ thấy ngay Noãn Noãn.

Nhưng giờ trong phòng trống hoác, chỉ có mình tôi.

Cảm giác như đang có một lực vô hình từ căn phòng ép xuống người tôi, tôi không thở nổi, bèn xuống tầng, ra khỏi khách sạn.

Ra phố Vương Phủ Tỉnh, hôm nay chính là chủ nhật, trên phố người qua lại tấp nập.

Tôi thả bước đi vô định, cả bước đi lẫn tâm trạng đều chẳng phù hợp với dòng người trên phố.

Tới ngã ba, tôi rẽ phải đi thẳng tiếp phố Đông Trường An, tới quảng trường Thiên An Môn.

Quảng trường có sức chứa một triệu người lúc này đã có vài vạn người đổ về, nhưng vẫn mang cảm giác trống trải.

Xuyên qua Thiên An Môn, tôi mua một tấm vé vào cửa, rồi vào Tử Cấm Thành.

Năm ngoái vào thăm nơi này với Noãn Noãn đúng vào giữa mùa hè, ánh mặt trời chiếu lên lớp ngói vàng, sáng lấp lóa.

Bây giờ sau trận tuyết ba hôm trước, Tử Cấm Thành nhuộm một sắc trắng, nhìn sao ảm đạm lạnh lẽo

Tôi đi loanh quanh, tới nơi nào cũng đầy những kỷ niệm từng dừng chân cùng Noãn Noãn.

Cuối cùng đi tới Ngự Hoa Viên, cây liên lý vì hứng tuyết mà bạc cả đầu, nhưng vẫn trước sau ôm chặt lấy nhau.

Cây liên lý vẫn cứ là biểu tượng cho tình yêu thuần khiết, bất kể mùa đông hay mùa hạ, tóc xanh hay tóc trắng, cần mẫn nhắc nhở con người rằng tình yêu thuần khiết đáng quý biết bao, đáng ca ngợi biết bao.

Nếu như có một ngày, mọi cặp nam nữ trên thế gi­an này đều có thể đối với nhau chân thành thuần khiết, nào còn cần cây liên lý đứng đây nhắc nhở chúng ta về sự thuần khiết của tình yêu?

Tới lúc đó, cây liên lý có thể ngậm cười héo khô được rồi.

Đến giờ, cây liên lý vẫn còn xanh tốt, là vì con người vẫn còn cần được nhắc nhở.

Rời Ngự Hoa Viên, ra khỏi Thần Vũ Môn, sông Hộ Thành tích đầy băng tuyết, có lẽ chẳng bao lâu nữa sẽ hoàn toàn kết băng.

Di động đột nhiên đổ chuông, nhìn màn hình hiển thị, là Noãn Noãn.

“Lương Lương,” giọng Noãn Noãn rất lo lắng, “anh đang ở đâu?”

“Ở bờ sông Hộ Thành ngoài Thần Vũ Môn” tôi nói.

“Em tới ngay đây” giọng Noãn Noãn vẫn rất gấp gáp.

“Em đừng vội, cứ từ từ thôi” tôi nói.

Tôi nhìn chăm chăm xuống dòng nước chầm chậm trôi trên sông Hộ Thành, liệu khi Noãn Noãn tới, nước sông Hộ Thành có đóng băng

“Lương Lương!” Noãn Noãn gọi.

Tôi quay lại nhìn Noãn Noãn, mới mấy tiếng không gặp mà trong lòng kích động như vậy.

Noãn Noãn nói dài dòng một hồi, không ra thứ tự lô gic gì.

Tôi nghe xong phải sắp xếp lại thông tin, hóa ra em xong việc liền về nhà tắm rửa, tắm rửa xong định tới tìm tôi, nhưng lại ngủ quên mất.

“Tới khách sạn không thấy anh, em còn tưởng anh ra sân bay đáp máy bay về rồi” Noãn Noãn nói.

“Còn chưa nghe em chào tạm biệt, anh sẽ không đi đâu” tôi nói.

Mùa đông phương Bắc, trời tối rất mau, Noãn Noãn hỏi tôi muốn đi ăn tối ở đâu.

“Ăn món Trùng Khánh đi” tôi nói.

“Anh không ăn được cay cơ mà?” Noãn Noãn rất ngạc nhiên.

“Nhưng em thích thấy anh bị cay đến chóng mặt,” tôi nói, “không phải sao?”

“Nói mấy lời ngốc nghếch gì thế,” Noãn Noãn nói, “chúng ta đi ăn lẩu thịt trắng dưa chua Đông Bắc chính cống đi.”

Tôi tin rằng quán lẩu thịt trắng dưa chua Noãn Noãn dẫn tôi đến nhất định rất Đông Bắc, nhưng tôi chẳng còn lòng dạ nào.

Cuộc ly biệt sắp tới gần khiến lòng tôi lạnh buốt, không cách nào cười nói bình thường với Noãn Noãn cho được.

Noãn Noãn dường như cũng nhận thấy vậy, những câu chuyện trò dần ít đi, cuối cùng thành im lặng.

“Noãn Noãn,” phá vỡ bầu không khí tĩnh mịch, “em có biết Mary họ gì không?”

“Hả?” Noãn Noãn dường như giật nảy mình, “Mary họ gì?”

“Christmas,” tôi nói.

“Hử?”

“Vì mọi người đều nói: Merry Christmas mà.”

Noãn Noãn trừng mắt nhìn tôi, hồi lâu sau mới nói: “Anh vất vả quá.”

“Thực sự rất vất vả” tôi nói.

Bấy giờ Noãn Noãn mới khẽ bật cười, tôi cũng vì thế mà cười theo.

“Năm nay khi đón Giáng Sinh, em phải nhớ lại lúc này nhé” tôi nói.

“Ừm.” Noãn Noãn nhoẻn cười.

Ăn xong, Noãn Noãn dẫn tôi đến trà quán Lão Xá uống trà nghe kịch.

Trà quán mang nét cổ xưa, cố gắng tái hiện văn hóa trà quán của Bắc Kinh cũ.

Noãn Noãn đã đặt bàn trước, lúc ngồi xuống, chúng tôi mới nhận ra phòng biểu diễn đã chật kín người, quá nửa trong đó là người nước ngoài.

Tiết mục biểu diễn có Kinh kịch, nhại tiếng, tạp kỹ, tấu hài, dân ca…, thậm chí còn có cả võ thuật Trung Hoa.

Trước đây từng xem trên ti vi biểu diễn biến mặt, giờ được tận mắt chứng kiến, mắt thường vẫn không nhanh bằng tay diễn viên.

“Tôi phải đi bán nem…” diễn viên Kinh kịch trên sân khấu ngân dài âm cuối, “rán”

Tôi cười phá lên quên cả thể diện.

Rời khỏi trà quán Lão Xá, đêm đã về khuya, tôi và Noãn Noãn dạo bộ trên phố.

Cũng không hiểu vì sao, như một thỏa thuận ngầm, chúng tôi không ngồi taxi, mà chỉ đơn giản muốn tản bộ.

Qua Tiền Môn, ánh đèn spotlight màu vàng ấm chiếu sáng lên tòa cổ thành, trông rất đẹp.

Đây có lẽ là sự kết hợp hoàn hảo nhất giữa khoa học kỹ thuật hiện đại và những kiến trúc cổ xưa.

Trên nền Tiền Môn, đêm Bắc Kinh toát lên một khí chất mê đắm lòng người.

Tôi và Noãn Noãn hầu như không nói chuyện, chỉ thỉnh thoảng mỉm cười khi ánh mắt giao nhau.

Tôi cố nhớ xem còn lời nào chưa nói, vì đây đã là đêm cuối cùng ở Bắc Kinh rồi.

Đột nhiên nhớ ra một chuyện, năm ngoái Noãn Noãn lúc nào cũng kêu gào hoặc ngầm ám chỉ muốn tới thăm Noãn Noãn, nhưng lần này tôi tới Bắc Kinh, lại không hề thấy Noãn Noãn nhắc lại chuyện này.

Đi thẳng đường phía đông quảng trường, bên tay trái là quảng trường Thiên An Môn, tới cuối rồi quẹo phải ra phố Đông Trường An.

“Chuyện em muốn tới Noãn Noãn…” tôi nói.

“Em biết,” Noãn Noãn không để tôi nói hết, “Tiểu Tâm mua cá, nhưng A Lực không muốn nấu.”

“Thực ra anh…”

“Không cần nói nữa, trong lòng em hiểu cả” Noãn Noãn mỉm cười, “anh có tâm là đủ rồi”

Tuy Noãn Noãn nói vậy, nhưng tôi vẫn cảm thấy có lỗi.

“Rất xin lỗi em,” tôi nói, “đây thực ra chỉ là một nguyện vọng nhỏ bé…”

“Thứ gọi là nguyện vọng ấy, tốt nhất là cái thì thực hiện, cái lại chẳng nên thực hiện” Noãn Noãn nói.

“Vì sao?”

“Nguyện vọng đều được thực hiện cả rồi, cuộc sống còn có ý nghĩa gì nữa chứ?” Noãn Noãn nhoẻn cười.

“Em có nguyện vọng đã được thực hiện rồi không?” tôi hỏi.

“Có chứ” Noãn Noãn nói. “Không phải giờ anh đang ở Bắc Kinh đó sao?” Noãn Noãn nở một nụ cười mãn nguyện.

Tôi cũng cười, bởi tới Bắc Kinh tìm Noãn Noãn cũng chính là nguyện vọng của tôi.

Phố Đông Trường An rộng lớn, đêm đã khuya mà những dòng xe vẫn nối tiếp nhau không nghỉ, người đi bộ chỉ như những con kiến đang bò nơi góc tường.

“Cho anh này.” Noãn Noãn giơ ra một món đồ, tôi đưa tay cầm lấy.

Là một phiến lá đỏ sẫm, thậm chí còn mang chút sắc tím, hơi giống hình bầu dục.

“Lá đỏ trên Hương Sơn đấy,” Noãn Noãn nói. “Hôm sinh nhật anh, em đi Hương Sơn nhặt.”

“Đây chắc không phải lá phong nhỉ” tôi nói.

“Đây là lá cây hoàng lô, cứ đến mùa thu là nhuộm sang sắc đỏ, hơn nữa càng gặp sương càng thêm thắm sắc,” Noãn Noãn nói. “Sinh nhật anh đúng tiết sương giáng, là lúc lá đỏ nhất và cũng đẹp nhất, vừa hay tặng anh làm quà sinh nhật. Thích không?”

“Ừ.” Tôi gật đầu. “Cảm ơn em.”

“Có người nói mùa thu ở Bắc Kinh là đẹp nhất, đó là vì lúc đó lá trên Hương Sơn phủ tràn một sắc đỏ, đâu đâu cũng thấy một màu đỏ, còn đỏ hơn hoa, đỏ hệt như lửa, cảnh sắc vô cùng đẹp” Noãn Noãn nói. “Vì vậy mùa thu tới Bắc Kinh là đẹp nhất.”

“Mùa thu nên quay lại Portman chứ” tôi nói.

“Anh vẫn nhớ bài thơ đó à?” Noãn Noãn hỏi.

“Ừ,” tôi nói. “Cảm ơn em.”

“Cảm ơn gì?”

“Vì em đã cho anh đọc được bài thơ ấy, và cũng cho anh uống cả vang đỏ.”

“Công ty chi tiền mà.”

“Nhưng tâm ý là của em.”

Noãn Noãn không nói gì nữa, chỉ mỉm cười.

Rẽ trái vào phố Vương Phủ Tỉnh, các cửa hàng hầu như đều đã đóng cửa, cảnh huyên náo ban ngày đã trở lại tĩnh lặng.

Tôi định bỏ chiếc lá đỏ vào ví, vừa mở ví ra, tấm ảnh trước mặt khiến tôi thất thần.

“Ngắm ảnh người yêu đấy à?” Noãn Noãn nói đùa.

“Đúng thế.” Tôi đưa ví cho Noãn Noãn.

Noãn Noãn chỉ nhìn qua liền đỏ ửng mặt, nói: “Ảnh của em sao lại ở trong ví anh?”

“Đây là ảnh Cao Lượng chụp lúc ở Bắc Thất lầu, Trường Thành năm ngoái” tôi nói.

“Thêm mấy năm nữa, có lẽ em không còn trông thế này đâu.” Noãn Noãn xem một lúc, rồi đưa ví lại cho tôi.

“Trong tim anh, em mãi mãi trông thế này” tôi nói.

“Nói cứ như sau này không gặp nữa ấy.” Noãn Noãn trừng mắt nhìn tôi.

“Anh nói sai rồi,” tôi nói, “anh xin lỗi.”

“Em chấp nhận” Noãn Noãn nói.

Khách sạn Đài Loan đã ở ngay trước mắt, chỉ cách chiều ngang một con đường, tôi và Noãn Noãn cùng dừng bước.

Trước khi cất chiếc lá đỏ vào ví, tôi nhận thấy dòng chữ mặt sau tấm lá.

Hẳn là chữ Noãn Noãn viết bằng bút lông: Sớm mai trên đường dài, tiếc tấm lòng lúc này.

“Em có nguyện vọng mới nào chưa?” tôi nói.

“Mong lần sau gặp lại, anh vẫn trông như bây giờ” Noãn Noãn nói. “Còn anh?”

“Hì hì” tôi bật cười.

“Vậy em phải cố sống cho tốt, đợi nguyện vọng thành sự thật.” Noãn Noãn cũng cười.

Noãn Noãn vẫy vẫy tay, lên taxi, đi về hướng Đông.

Tôi băng qua đường, về hướng Bắc, vào khách sạn.

Về phòng, sắp xếp hành lý, tôi mở cửa sổ, ra ban công ngồi, tận hưởng đêm cuối cùng ở Bắc Kinh.

Cảm thấy lạnh dần, tôi bèn đóng cửa sổ, nằm lên giường, đợi trời sáng.

Trời sáng rồi.

Kéo khóa va li chắc chắn, cho vé máy bay và giấy chứng nhận đồng bào Đài Loan vào ba lô tùy thân, rồi đi xuống sảnh.

Làm xong thủ tục check out, tôi ngồi lên ghế so­fa trong sảnh khách sạn, mặt hướng ra cửa.

Noãn Noãn tới rồi, chậm rãi bước đến trước mặt tôi, dừng lại.

Tôi đứng dậy.

“Hi, Lương Lương,” Noãn Noãn nói.

“Hi, Noãn Noãn” tôi nói.

“Đi thôi” Noãn Noãn nói.


HẾT CHƯƠNG 15
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

25#
Đăng lúc 23-6-2013 15:07:12 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 14


Tiếng chuông inh tai kéo tôi khỏi giấc mơ, nhưng tôi vẫn không muốn rời mặt đất phủ đầy tuyết trong mơ.

“Lương Lương, dậy đi.” Cảm giác như cánh tay phải bị rung lắc dữ dội, mở mắt ra liền trông thấy Noãn Noãn, tôi giật mình ngồi bật dậy.

“Sao thế?” Noãn Noãn hỏi.

Trong đầu trống rỗng mất mấy giây, cuối cùng cũng nhớ ra mình đang trên tàu hỏa, mà lại còn đi cùng Noãn Noãn nữa.

“He he,” tôi cười.

Cầm lấy bàn chải kem đánh răng khăn mặt, vừa bước khỏi cửa cabin, gió lạnh thấu xương khiến tôi hoàn toàn tỉnh táo.

Cũng may phòng vệ sinh trên tàu có nước nóng, nếu chỉ có nước lạnh, rửa mặt xong chắc mặt tôi biến thành băng điêu khắc mất.

Đánh răng rửa mặt xong quay về cabin, đi giày vào, kiểm tra xem còn bỏ quên thứ gì không.

Chỉnh lại quần áo, đeo ba lô, tôi và Noãn Noãn xuống tàu.

“Cuối cùng cũng đến Cáp Cáp Cáp Nhĩ Tân của anh rồi,” Noãn Noãn nói. “Có cảm tưởng gì không?”

“Bắc Kinh lạnh, Cáp Nhĩ Tân lại càng lạnh, ngay đến câu nói đùa của Noãn Noãn cũng lạnh hơn Đài Loan.” Răng lợi va lập cập, tôi nói: “Tóm lại chỉ có một chữ lạnh.”

“Còn không mau đeo khăn đội mũ vào.” Tôi quàng khăn quanh cổ, nhưng mũ len thì chưa đội bao giờ, nên có đội thế nào cũng vẫn thấy kỳ kỳ.

Noãn Noãn giúp tôi chụp mũ len, lại chỉnh chỉnh một chút rồi vỗ nhẹ lên đầu tôi.

“Được rồi.” Noãn Noãn nhoẻn miệng cười.

Đang chuẩn bị lên xe taxi, tay vừa chạm vào tay nắm cửa kim loại, đã nghe tách một tiếng, ngón tay tôi lập tức rụt lại.

“Trời lạnh,” Noãn Noãn cười nói, “tĩnh điện cũng mạnh hơn.”

“Những ngày này không đến nỗi phải sống nguy hiểm vậy chứ” tôi nói.

“Bị giật nhiều rồi cũng quen thôi” Noãn Noãn nói.

Noãn Noãn nói trước đây để tóc dài, có lần đi taxi sợi tóc vô tình quẹt qua tay nắm cửa, kêu lép bép một trận ầm ĩ.

“Còn thấy cả tia lửa điện nữa cơ” Noãn Noãn nhoẻn cười.

Tôi nói như thế thật là hay, tóc bị giật nhiều sẽ thành xoăn, đỡ tốn tiền đi uốn tóc.

Ngồi lên taxi, chiêm ngưỡng buổi sớm Cáp Nhĩ Tân qua cửa kính xe, bầu trời xanh trong không một gợn mây.

Cáp Nhĩ Tân quả không hổ với tên gọi “Mátxcơva phương Đông”, thành phố mang đậm phong vị Nga, đi trên phố cũng thường thấy những kiến trúc mái nhọn kiểu Nga.Tôi và Noãn Noãn ăn sáng ở một tiệm bánh bao Goubuli, thuộc chuỗi cửa hàng nhượng quyền của bánh bao Goubuli Thiên Tân.

Bánh bao nóng hôi hổi, vỏ mỏng vị thơm ngon, lại thêm hương thơm của cháo đậu xanh, khiến toàn thân tôi bắt đầu thấy ấm áp.

Hàng quán ở Cáp Nhĩ Tân hầu như đều sáng 8 giờ mở hàng, tối 7 giờ đóng cửa, việc này thật khó tưởng tượng nổi ở Đài Loan.

Tôi và Noãn Noãn đến một cửa tiệm có vẻ như trà quán, trước khi vào cửa, Noãn Noãn dặn: “Người lát nữa sẽ gặp họ Tề, chúng ta phải gọi ông ấy là…”

“Bác sĩ Tề Ngõa Ca *”, tôi cắt ngang lời em.

* Bác sĩ Zhivago, một tiểu thuyết của nhà văn Liên Xô Boris Pastemak từng được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel Văn học năm 1958, đã được chuyển thể thành phim.

“Cáp Nhĩ Tân đã đủ lạnh rồi, tuyệt đối không được nói mấy câu đùa lạnh tanh ấy nữa.” Noãn Noãn bật cười. “Hơn nữa bác sĩ Tề Ngõa Ca vào Đại lục đã đổi tên rồi, gọi là bác sĩ Nhật Ngõa Qua.”
“Em cũng nói đùa lạnh tanh đấy thôi,” tôi nói.

“Tóm lại phải gọi ông ấy là thầy Tề, chứ không phải bác sĩ Tề.”

Tôi gật đầu, định mở cửa bước vào, nhưng vừa chạm vào tay nắm cửa đã lại bị điện giật kêu tanh tách.

Tôi đã tới chỗ Noãn Noãn làm việc, biết là nhà xuất bản hay tòa soạn tạp chí gì đấy, nhưng không hỏi kỹ.

Vì vậy ngôn ngữ và nội dung Noãn Noãn nói chuyện với thầy Tề, chẳng hề khiến tôi buồn chán.

Nếu như tôi và Noãn Noãn đổi vai cho nhau, tôi bàn chuyện công việc, em đi cùng tôi, đoán chắc em nghe chưa được mười phút là đã gật gù rồi.

Để không chỉ đơn thuần là một thứ đồ trang trí, tôi cũng lôi sổ tay ta vẽ nhăng vẽ cuội, giả vờ bận bịu; thỉnh thoảng cũng gật đầu nói mấy câu đại để như ngài nói đúng lắm, nói rất hay, rất có lý, vân vân.

Cuộc phỏng vấn với thầy Lý kết thúc, chúng tôi tới một tòa nhà như được xây dựng từ những năm 60.

Người gặp lần này là một thím tầm 50 tuổi, “họ An,” Noãn Noãn nói.

“Chẳng nhẽ là Anna Karenina*?” tôi nói. “Cáp Nhĩ Tân thật là quá Nga.”

* Tên nhân vật chính trong tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nga Lev Nikolayevich Tolstoy.

“Lương Lương.” Noãn Noãn lạnh tanh nói.

“Dạ,” tôi nói, “phải gọi thím ấy là cô An.”

“Ừ.” Noãn Noãn lại nhoẻn cười, “Hơn nữa Anna Karenina đáng nhẽ phải họ Ka mới đúng.”

Rời khỏi nhà cô An thì cũng vừa 12 giờ trưa. Noãn Noãn có vẻ hơi cuống, vì hình như cuộc hẹn tiếp theo sắp muộn rồi.

Gọi một chiếc taxi, tôi vội vàng mở cửa xe, lại bị giật phát nữa.

Xuống xe, ngẩng đầu nhìn, trên tấm biển viết: “Nhà hàng Âu Portman”.

Cũng may tay nắm cửa làm bằng gỗ, không lại bị giật tiếp thì tôi chắc sẽ giống Châu Tinh Trì, học được thần quyền Điện giác mất.

“Đeo găng tay vào đi,” Noãn Noãn nói, “sẽ không bị điện giật nữa.”

“Sao giờ em mới nói?”

“Vì em muốn thấy anh bị giật chứ sao” Noãn Noãn cười cười nói.

Tôi ngẫm nghĩ mình cũng ngốc thật, quyết định về sau lúc nào cũng sẽ đeo găng tay, vào trong phòng mới tháo ra.

Noãn Noãn rất nhanh đã bước tới bên bàn một người đàn ông trung niên tầm 40 tuổi, nói: “Thành thực xin lỗi, cháu đến muộn rồi.”

Người đàn ông cười nói không sao, ra ý cho chúng tôi ngồi xuống hẵng nói.

“Từ thời đi học cháu đã rất thích tác phẩm của chú, hôm nay được gặp chú thế này thật vinh hạnh quá,” Noãn Noãn nói.

“Tiền Trung Thư nói không sai, thích ăn trứng gà, nhưng không cần phải đi xem con gà đẻ trứng trông thế nào.” Người đàn ông cười ha hả. “Có những người không gặp thì hơn.” Ừm, người này hẳn rất giỏi giao tiếp đây.

Quan sát nhà hàng kiểu Nga này một chút, trần nhà có các bức vẽ theo phong cách châu Âu cổ, còn treo cả đèn trùm pha lê.

Ánh đèn màu vàng thiên nga không hề chói mắt, ngược lại còn khiến người ta cảm thấy thoải mái, ấm áp.

Khung bàn khắc hoa, cửa sổ kính màu sặc sỡ, quầy bar và hành lang bằng gỗ hồng, chân nến mang dấu vết thời gian; những bom bia to tướng nằm trong góc, trên tường bày vô vàn bình rượu, xen kẽ là mấy tấm ảnh cũ.

Không gian tràn ngập giai điệu của vĩ cầm và dương cầm, mềm mại uyển chuyển.

Đây là một góc ấm áp giữa thành phố lạnh giá này.

Noãn Noãn gọi mấy món Nga gồm bánh thịt lợn kiểu Nga, thịt cừu nướng lò, xúp củ cải đỏ, trứng cá muối Big Mahathir, còn thêm cả ba ly vang đỏ.

“Vang đỏ?” tôi thì thào bên tai Noãn Noãn. “Không giống phong cách của em nhỉ?”

“Để anh uống đấy” Noãn Noãn cũng thì thào bên tai tôi. “Uống chút rượu cho ấm người.”

“Tên em còn có thể dùng làm động từ được à,” tôi nói, “thật đáng ngưỡng mộ.”

Noãn Noãn lườm tôi một cái, tôi bèn biết ý ngậm miệng.

Món Nga ở đây có chính cống không tôi không biết, nhưng rất ngon, giá cả cũng không đắt.

Vang đỏ nghe nói do nhà hàng tự ủ, vị rượu khá nhẹ, hương thơm ngọt chứ không đắng chát, rất đặc biệt.

Trong nhà hàng tràn đầy không khí ấm áp, trên gương mặt mỗi vị khách đều thoáng mang một nụ cười hạnh phúc.

Noãn Noãn và người đàn ông trung niên kia vừa ăn vừa nói chuyện, tôi chuyên tâm ăn uống, ba người ai cũng có việc để làm.

Đúng lúc tôi đang định cầm khăn giấy lên lau khóe miệng đã thỏa thuê, thì nhận ra trên gói giấy ăn có in một bài thơ.

Mùa thu, ta trở về Portman

Trong khúc cuối bản tình ca cũ

Nhớ người bướng bỉnh ngang tàng.

Từ khi ta tin rằng người là chiếc áo gió

Đến khi người thu nhỏ thành một dãy số

xa xăm trong cuốn sổ điện thoại,

Lúc này đây

Sự kiên cường của ta, đêm đêm bị nhớ nhung tập kí>

Thư người nhàu nhĩ

Như trán người luôn che lấp bởi nụ cười

Ta trải ra dưới ánh nến

Nhẹ nhàng lần mở

Như một chiếc nhẫn rơi vào ly vang đỏ

Hạnh phúc của ta

Trào ra trong mắt.


“Như một chiếc nhẫn rơi vào ly vang đỏ, hạnh phúc của ta trào ra trong mắt” người đàn ông trung niên nói.

Tôi ngẩng đầu lên nhìn ông, đoán rằng hẳn ông đang nói với mình, bèn gật đầu.

“Bài thơ này đem đến cho cậu cảm giác gì?” ông hỏi.

“Ừm…” tôi ngẫm nghĩ một lát, “tuy có vẻ đã đạt được hạnh phúc, nhưng lại có một cảm giác buồn thương.”

“Thật sao?” Người đàn ông lại hỏi: “Vậy cậu nghĩ người viết bài thơ này là nam hay nữ?”

“Về mặt con chữ, giống đang miêu tả một người phụ nữ cuối cùng cũng có được hạnh phúc, nhưng tôi cho rằng người viết là một người đàn ông, không chừng còn chính là ông chủ nhà hàng này nữa, hơn nữa chắc chắn ông ấy đã mất đi người mình thương yêu” tôi nói.

“Rất thú vị,” người đàn ông bật cười, “cậu nói nghe xem nào.”

“Có lẽ ông chủ nhà hàng sau khi mất đi tình yêu, đã viết thơ tình, tự rượu vang, để khi khách đến uống một ly rượu, trong lòng sẽ mong chờ có được hạnh phúc,” tôi nói, “chỉ có đàn ông mới có được tấm lòng ấy.”

“Phụ nữ thì sao?”

“Phụ nữ sau khi mất đi tình yêu, sẽ vẫn vui vẻ cưới người khác” tôi nói.

“Nói nhảm!” Noãn Noãn lên tiếng.

Nhất thời quên mất Noãn Noãn đang ở bên cạnh, tôi quay sang em cười ha ha.

“Trí tưởng tượng của cậu rất phong phú” người đàn ông nói.

Tôi hơi ngại ngùng, chỉ cười cười.

Noãn Noãn đứng dậy đi rửa tay, người đàn ông đợi Noãn Noãn đi rồi mới nói: “Rất nhiều cô gái dẫn chàng trai trong lòng mình tới đây uống vang đỏ.”

“Chính vì bài thơ này sao?” tôi nói.

“Đúng vậy.” Người đàn ông gật đầu. “Cậu biết không? Cô Tần vốn không hẹn tôi ở đây đâu.”

“Dạ?” Tôi hơi hiếu kỳ.

“Tôi đoán cô ấy vì cậu, nên mới đổi hẹn sang đây đấy.”

“Trí tưởng tượng của chú phong phú thật” tôi nói.

Noãn Noãn từ buồng rửa tay đi ra, người đàn ông nói: “Có mang hợp đồng không?”

“Có ạ.” Noãn Noãn khá kinh ngạc, lấy bản hợp đồng khỏi túi xách.

“Tôi phải ký nhanh nhanh,” người đàn ông cười nói, “để hai cô cậu còn có thời gian đi thăm thú Cáp Nhĩ Tân chứ”

Noãn Noãn đưa bản hợp đồng cho người đàn ông, ông chỉ xem lướt qua, liền đặt bút ký.

“Cảm xúc bài thơ này đem lại cho tôi, cũng là buồn thương.”

Người đàn ông đứng dậy, giũ giũ vạt áo, nói: “Chiếc nhẫn liệu chưa chắc được giấu trong lá thư, mà được cầm trong tay. Khi thả chiếc nhẫn vào ly vang đỏ, thứ trào lên trong mắt không phải hạnh phúc, mà là nước mắt của chính mình.”

Người đàn ông chào tạm biệt xong, liền rời khỏi Portman.

“Lúc em không có mặt, hai người nói gì thế?” Noãn Noãn hỏi.

“Đây là bí mật giữa đàn ông với nhau,” tôi lắc đầu, “không thể nói cho phụ nữ được.”

Ra khỏi Portman, gió lạnh táp vào mặt, tôi thở ra một làn hơi trắng dài, toàn thân cảm thấy thư thái.

Đi qua một bức tượng ngựa điêu khắc bằng đồng, nhìn thấy một con phố lớn vừa dài vừa rộng, đây là phố Trung Ương.

Phố Trung Ương bắt đầu được xây dựng từ năm 1898, trước gọi là phố Trung Quốc, nhưng kỳ thực chẳng hề giống Trung Quốc một chút nào.

Phố dài 1450 mét, rộng hơn 20 mét, hai bên đều là những tòa nhà xây theo kiến trúc châu Âu, tập hợp đầy đủ các trường phái kiến trúc nghệ thuật Phục hưng, Baroque, Gothic, Byzantine, Eclectic, Art Nouveau.

Màu sắc kiến trúc cũng muôn vẻ, tông đỏ, tông xanh, tông vàng, tông hồng, tông xám đủ cả.

Cả con phố lớn như một hành lang dài trưng bày các tác phẩm kiến trúc nghệ thuật, mang khí chất cao ngạo cùng không khí lãng mạn.

Mặt đường lát đá hoa cương, bởi tuổi thọ đã hơn 100m, trên mặt đường đôi chỗ cũng xuất hiện những vết lồi lõm.

Đá hoa cương dài 18 xăng ti mét, rộng 10 xăng ti mét, cao gần nửa mét, từng phiến từng phiến gắn sâu vào mặt đất, lát thành một con đường đá dài tăm tắp. Mỗi phiến đá hoa cương đáng giá chừng một tháng sinh hoạt phí của người dân Trung Quốc hồi ấy.

Những cột đèn đường đen sì được dựng theo hình đế nến, trên đế nến không cắm nến mà dùng bóng đèn mờ.

Giống như hầu hết các cột đèn trên đường phố châu Âu vào thế kỷ XIX.

Lờ mờ nghe tiếng vó ngựa lách cách, bất giác ngoảnh đầu lại nhìn, cứ ngỡ từ đâu đột nhiên xuất hiện một chiếc xe ngựa.

Trong đầu lập tức hiện lên một cảnh phim “Chiến tranh và hòa bình”, khi Audrey Hepburn bước từ trên xe ngựa xuống.

Hôm nay là thứ Bảy, đây là phố đi bộ, ô tô không được đi vào, không biết xe ngựa liệu có được không?

Trên phố nô nức những dòng người, gót giày các cô gái gõ nhịp lên mặt đá hoa, phát ra những tiếng trong vắt.

Con gái Cáp Nhĩ Tân dáng người cao, sống lưng thẳng, khuôn mặt ngời sáng thông minh, cảm giác rất cool.

Nếu như cưa cẩm các cô mà ăn nói không đứng đắn, chắc hẳn sẽ bị đánh cho trọng thương.

Những cô gái Nga tuổi đôi mươi cũng không ít, hầu hết bọn họ đều mặc áo da bó sát người, để lộ đường cong quyến rũ.

Khuôn mặt trắng như tuyết ửng hồng, từng lọn tóc vàng tràn ra khỏi mũ len, cả đoạn đường ríu rít nói cười chạy nhảy, hệt những tinh linh trong tuyết trắng.

Nhưng mấy cô gái Nga duyên dáng xinh đẹp trước mắt thường là đến chừng 30 tuổi, người đã bắt đầu sồ sề chỉ có sồ ra chứ không có sồ vào.

Chẳng trách nước Nga lại sản sinh ra bao đại văn hào là vậy, bởi so với những con người ở các nơi khác trên thế giới, bọn họ càng dễ dàng lĩnh ngộ được đạo lý nét đẹp chỉ tồn tại trong thoáng chốc.

“Nói gì thế” Noãn Noãn nói.

“Hì hì” tôi bật cười.

“Anh thấy con gái Đông Bắc so với con gái Giang Nam thế nào?” Noãn Noãn hỏi.

“Anh còn chưa tới Giang Nam mà,” tôi nói.

“Chẳng phải anh từng ở Tô Châu còn gì?”

“Tô Châu được tính là Giang Nam à?”

“Linh tinh” Noãn Noãn nói.

Con gái Giang Nam lúc nói chuyện sóng mắt đong đưa, nhẹ nhàng duyên dáng, con người thanh nhã giống cây liễu rủ bóng bên hồ; con gái Đông Bắc đứng thẳng tự tin, da trắng, nét đẹp như vẽ, giống cây bạch dương bên đường cao tốc từ sân bay Thủ đô.

“Nhưng bọn họ đều rất xinh đẹp” tôi nói. “Con gái Giang Nam thanh tú, con gái Đông Bắc tươi tắn.”

“Vì thế em là bạch dương?” Noãn Noãn nói.

“Hả?”

“Anh quên rồi à?” Noãn Noãn nói. “Em cũng là con gái Đông Bắc đấy.”

“Em là đẳng cấp nữ thần, không thể đem so sánh với những thứ phàm trần được.”

“Em lại cứ muốn anh so sánh cơ” Noãn Noãn nói.

“Nếu như buộc phải hình dung, vậy thì em giống bạch dương liễu” tôi nói.

Năm cô gái Nga tiến lại phía chúng tôi, nói mấy câu tiếng Anh đơn giản, nhờ tôi giúp họ chụp kiểu ảnh.

Tôi đón lấy máy ảnh của các cô, quay sang thở dài với Noãn Noãn, nói: “Đẹp trai phiền thế đấy.”

Bối cảnh là tượng bốn cô gái kéo vĩ cầm, một người đứng, ba người ngồi, dáng người cao ráo, sinh động duyên dáng.

Tôi chụp xong, bèn nhờ một cô trong số họ chụp giúp tôi và Noãn Noãn bằng máy ảnh của Noãn Noãn.

Tôi và Noãn Noãn giơ hai tay làm hình chữ V.

Cầm tấm ảnh chụp trên con phố này, bạn có thể đi huênh hoang với mọi người là đã từng tới châu Âu, đảm bảo bọn họ không thể phân biệt nổi.

Chỉ duy có một sơ hở nhỏ, đó là mấy chữ tiếng Trung trên các biển hiệu cửa hàng.

“Anh được đấy” chụp ảnh xong, Noãn Noãn nói. “Còn chọn cô xinh nhất để nhờ nữa.”

“Anh tốn bao tâm huyết đấy” tôi nói.

“Tốn nhiều tâm huyết thế nào?”

“Cô gái Nga đó e rằng là cô xinh nhất trên phố này, cô ấy chắc cũng nghĩ như thế” tôi nói. “Nhưng đây là Trung Quốc, sao có thể để mấy cô tóc vàng mắt xanh huênh hoang tự đắc được. Vậy nên anh nhờ cô ấy chụp ảnh em, để cô ấy nhận thức được rằng núi cao còn có núi cao hơn. Em không thấy tay cô ấy bấm nút chụp còn run run vì xấu hổ à?”

“Nói luyên thuyên.” Noãn Noãn hứ một tiếng.

Khuôn mặt trắng ngần của Noãn Noãn ửng đỏ lên lạnh, lọn tóc đen dưới mũ len khẽ lướt qua mặt.

Trong mắt tôi, Noãn Noãn là cô gái đẹp nhất con phố này.

Noãn Noãn mới là tinh linh của tuyết trắng.

Tới nhà thờ Thánh Sophia, đây là giáo đường Chính thống giáo lớn nhất ở khu vực Viễn Đông.

Nhà thờ được xây bằng gạch nung đỏ, cửa sổ vòm gắn kính thạch anh màu.

Được xây theo hình chữ thập không đều, chính giữa là mái vòm kiểu Byzan­tine mang dáng củ hành tây màu lục đậm; trước sau trái phải là những ngọn tháp màu lục đậm theo kiến trúc Nga, trên mái vòm và tháp đều có thánh giá vàng.

Dưới bầu trời xanh trong vắt, từng đàn bồ câu trắng bay lượn trên quảng trường trước nhà thờ.

Noãn Noãn dang hai tay ra, quả thực có hai chú bồ câu đậu lên cánh tay em, Noãn Noãn cười khanh khách.

Tôi nói mùa đông đừng chơi trò này, Noãn Noãn hỏi vì sao?

“Phân chim bồ câu giống hệt tuyết, đều là màu trắng, không phân biệt nổi” tôi nói.

Noãn Noãn trừng mắt nhìn tôi, rồi hạ tay xuống.

Đi qua một tòa nhà ba tầng màu hồng phấn, trên tấm biển viết Khách sạn Modern.

Noãn Noãn nói đừng thấy tòa nhà này không bắt mắt, mấy trăm năm trước đây đã từng là khách sạn bậc nhất nhì Đông Bắc, đã tiếp đãi những người nổi tiếng như Phổ Nghi *, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV, hay Tống Khánh Linh.

* Phổ Nghi: Vị hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh.

“Lạnh không?” Noãn Noãn đột nhiên hỏi

“Một chút,” tôi nói, “nhưng không sao.”

“Thế thì ăn một que kem nhé.”

“Này,” tôi nói, “đùa đấy à?”

“Cái này gọi là lấy độc trị độc.” Noãn Noãn bật cười khanh khách. “Ăn vào có khi lại không thấy lạnh nữa.”

“Cái đấy gọi là thêm sương trên tuyết thì có” tôi nói.

Noãn Noãn bỏ ngoài tai, kéo tôi lại gần khách sạn Modern, trên đất bày mấy chiếc thùng giấy.

Tôi vừa nhìn qua đã thấy giật thót mình, đây đều là kem que.  

Về sau mới bàng hoàng nhận ra, giờ ngoài trời đang dưới âm độ, chưa biết chừng còn lạnh hơn cả ngăn đá tủ lạnh, kem que cứ để hẳn ra bên ngoài cũng chẳng sao.

Noãn Noãn mua hai que kem, đưa cho tôi một que.

Cắn một miếng, toàn thân không những không lạnh buốt như tưởng tượng, mà thậm chí còn có cảm giác sảng khoái.

Nhưng khi ăn được một nửa, người bất giác run lên cầm cập.

“Chủ ý của em là muốn thấy anh lập cập thế này đấy.” Noãn Noãn cười rất thích thú.

Ăn xong kem, Noãn Noãn nói vào đâu đó cho ấm, chúng tôi bèn đi vào Trung tâm Thương mại Nga.

Bên trong bày bán đủ mọi mặt hàng của Nga, nhân viên bán hàng cũng mặc giống người Nga.

Nhưng nhạc phát lại là bài “Ca Thập Ca Nhĩ Hồ Dương” của Đao Lang, khiến người ta có chút rối loạn.

Tôi mua một con búp bê Nga, mấy năm trước thứ đồ chơi này từng rất thịnh hành ở Đài Loan.

Ra khỏi Trung tâm Thương mại Nga, thấp thoáng xa xa thấy một đài phun nước.

Vốn nghĩ chẳng có gì, nhưng đến gần xem, từng hạt nước phun ra lập tức bị kết thành băng trong hồ nước, tạo nên một kỳ quan phun nước thành băng tuyệt đẹp.

Chếch đối diện khách sạn Modern là nhà sách Giáo Dục, được xây hai mặt tiền, với cửa lớn mở ngay giữa góc giao nhau.

Nhà sách cao năm tầng, bên ngoài sơn màu trắng giản dị, mái vòm đỏ đậm theo trường phái nghệ thuật Phục hưng.

Trên cửa có hai bức tượng cẩm thạch cao bằng một tầng nhà, cột trụ corinth * cao hai tầng nhà bắt từ tầng ba lên tầng tư, những bức phù điêu tinh xảo trên bệ cửa sổ, ban công hình bán nguyệt và đài hoa, điển hình cho kiến trúc Baroque.

* Corinth: Một kiểu cột trụ trong kiến trúc cổ Hy Lạp.

Tôi và Noãn Noãn bước vào nhà sách, có thể hình dung về nơi đây bằng một chữ nhã, kiến trúc điển nhã, phù điêu cổ nhã, không khí cao nhã, vậy nên tôi chỉ có thể học đòi phong nhã, ưu nhã lật sách.

“Có phải anh ôn văn nho nhã lắm không?” tôi hỏi Noãn Noãn.

Noãn Noãn cười nắc nẻ như vừa được nghe chuyện cười siêu hài hước.

Rời khỏi nhà sách Giáo Dục, tôi và Noãn Noãn tiếp tục thả bộ trên phố.

Những tác phẩm điêu khắc thỉnh thoảng lại bắt gặp trên phố trở thành điểm dừng chân nghỉ ngơi của chúng tôi.

Tôi hỏi Noãn Noãn sao lại thông thạo Cáp Nhĩ Tân thế.

“Vì hay đến đây chứ sao” Noãn Noãn nói.

“Vì sao lại hay đến?”

“Quê em ở Tuy Hóa, chỉ cách Cáp Nhĩ Tân hơn 100 cây số về phía Đông Bắc, ngồi tàu hỏa chỉ mất hơn một tiếng.”

“Ra là vậy,” tôi nói.

“Đúng rồi,” Noãn Noãn nói, “tối qua em gọi điện cho bố, bố em bảo nếu có thời gian thì về qua nhà.”

“Đúng là nên về qua nhà” tôi nói.

“Bố em định ra oai phủ đầu, đã chuẩn bị hai vò rượu rồi, mỗi người một vò.”

“Hai bố con em lâu rồi không gặp, cũng nên mỗi người một vò lắm.”

“Là anh với bố em mỗi người một vò!”

“Hả?” Tôi há hốc miệng.

“Dọa anh sợ chết khiếp rồi phải không.” Noãn Noãn bật cười. “Anh yên tâm, buổi tối vẫn còn phải quay về Bắc Kinh mà.”

Noãn Noãn dẫn tôi vào một tiệm bánh mì, vừa vào cửa đã ngửi thấy một hương thơm ngào ngạt.

Một đống bánh mì cỡ bằng cái bồn rửa mặt bày chật kín kệ, nhìn giống bánh mì nướng, nghe nói mỗi cái nặng tới hai cân.

Noãn Noãn nói bánh mì trong tiếng Nga phát âm gần giống với liệt ba, vì vậy người Cáp Nhĩ Tân gọi loại bánh mì này là đại liệt ba.

Đại liệt ba được làm bằng cách cho lên men houblon, vì vậy hương thơm rất nồng, hơn nữa khi ngửi còn thấy hơi chua chu

Tôi mua một cái đại liệt ba, hết bảy tệ.

Noãn Noãn nói, đại liệt ba vào mùa đông có thể giữ được một tháng.

“Từ Bắc Kinh đến Tuy Hóa cách bao xa?” tôi hỏi Noãn Noãn.

“Tầm 1400 cây số.”

“Thế thì mỗi ngày đi bộ bốn mươi mấy cây, đi trong một tháng là có thể tới Tuy Hóa.”

“Sao mà phải đi bộ?”

“Nếu gặp một trận tuyết cực lớn, máy bay không bay được, tàu hỏa không chạy được, thì anh phải đi bộ thôi.’

“Nói gì thế.”

“Đi tìm em chứ sao” tôi nói. “Anh có thể mang theo vài cái đại liệt ba, đi trong trời đông giá rét một tháng liền.”

“Anh không sợ hổ Đông Bắc với gấu đen nữa à?”

“Có sợ vẫn cứ phải đi thôi.”

Noãn Noãn bật cười, dường như cũng nhớ lại lúc ở bên bờ Thập Sát Hải hè năm ngoái.

“Tuy Hóa có mấy di tích cổ đời Kim, nếu anh đến, em sẽ dẫn anh đi xem” Noãn Noãn nói.

“Đời Kim?”

“Ừ,” Noãn Noãn nói, “có di chỉ tường thành đời Kim, kho lương Kim Ngột Thuật Đồn, lăng mộ Kim Ngột Thuật Muội.”

“Thế anh không đi đâu” tôi nói.

“Hả?”

“Anh đã thề trước linh cữu Nhạc Phi, kiếp này không đội trời chung với Ki Ngột Thuật.”

“Nói linh tinh.” Noãn Noãn trừng mắt nhìn tôi. “Lăng mộ Nhạc Phi ở bên bờ Tây Hồ Hàng Châu, anh còn chưa đến đó nữa là.”

“Anh đến rồi,” tôi nói. “Trước hôm rời Tô Châu một ngày, anh ở bên bờ Tây Hồ mà.”

Noãn Noãn trợn tròn mắt, dường như vẫn không tin.

“Lúc đó đọc ‘Trả lại ta sơn hà’ của Nhạc Phi, thật sự rất rất xúc động” tôi nói.

“Hóa ra anh tới đó thật rồi à.”

“Tuy Hóa đã là địa bàn của Kim Ngột Thuật, vậy thì…” tôi thở dài, “thật khó xử quá.”

“Anh khỏi lắm chuyện” Noãn Noãn nói.

“Noãn Noãn,” tôi nói, “con người tận trung báo quốc như anh, liệu có thể xin em trả lại anh sơn hà được không?”

Noãn Noãn nhìn tôi, phì cười, nói: “Được, trả lại anh.”

“Như vậy anh có thể đi thăm Tuy Hóa rồi.” Tôi bật cười

Noãn Noãn không biết rằng, dù đứng trước đền thờ Nhạc Vương, tôi vẫn nhớ đến em.

“Tây Hồ có đẹp không?” bẵng đi một lúc, Noãn Noãn hỏi.

“Rất đẹp” tôi nói.

“Đẹp chừng nào?

“Xứng tầm chị em với em” tôi nói. “Có điều Tây Hồ quá nổi tiếng rồi, nên em phải chịu thiệt thòi một chút, để Tây Hồ làm chị, em làm em.”

“Anh không nói nhảm thì chết à?”

“Ừ,” tôi nói. “Anh bị bệnh không nói nhảm là chết.”

Nói nói cười cười một hồi, tôi và Noãn Noãn đã đi đến điểm cuối phía Bắc của con phố Trung Ương, quảng trường đài tưởng niệm chống lũ sông Tùng Hoa.

Quảng trường này được xây để kỷ niệm năm 1957 nhân dân Cáp Nhĩ Tân đã vượt qua cơn lũ lịch sử.

Đài tưởng niệm chống lũ cao 13 mét, là một cột trụ, xung quanh có các hành lang bán nguyệt kiểu Roman.

Dưới đài tưởng niệm có 11 hồ nước bán nguyệt, với mực nước bằng mực nước cao nhất của cơn lũ năm 1957.

Đứng dưới đài tưởng niệm nhìn ra sông Tùng Hoa, hai bờ sông tuy đã bị băng tuyết phủ kín, nhưng trên sông nước vẫn chảy theo dòng.

Noãn Noãn nói có lẽ qua vài ngày nữa, mặt sông Tùng Hoa mới hoàn toàn đóng băng.

“Bờ bên kia chính là đảo Thái Dương, triển lãm băng tuyết nghệ thuật mỗi năm một lần được tổ chức tại đây,” Noãn Noãn nói, “dùng chính băng ở sông Tùng Hoa, chạm khắc nên cả một thế giới băng tuyết muôn hình muôn vẻ.”

Chúng tôi ngồi xuống bên hành lang, nơi đây là bờ sông, lại là nơi trống trải, hơn nữa còn có gió. Mới ngồi được năm phút, cuối cùng tôi cũng đã cảm nhận được sâu sắc mùa đông Cáp Nhĩ Tân.

Chỉ một từ thôi, lạnh.

“Chỗ này… hình như…” Răng tôi va lập cập.

“Đi tiếp thôi.” Noãn Noãn nhoẻn cười.

Noãn Noãn nói bên cạnh chính là công viên Stalin, có thể vào dạo bộ.

“Stalin trong tiếng Đài Loan phiên âm khác cơ,” tôi nói.

Noãn Noãn chỉ ừ một tiếng, dường như đã quá quen với cách nói khác nhau về cùng một người một việc giữa hai bờ.

“Nhưng bất kể phiên âm thế nào, thì cũng đều mang nghĩa người tình đã mất.”

“Người tình đã mất?” Noãn Noãn nghi hoặc.

“Ừ.” Tôi gật đầu. “Người tình đã mất, tử darling.”

Noãn Noãn bỗng nhiên dừng lại, ánh mắt trống rỗng.

“Câu đùa này hẳn phải đáng năm sao.” Tôi rất đắc ý.

“Em đông cứng lại rồi,” Noãn Noãn nói. “Đã bảo anh tới Cáp Nhĩ Tân không được nói mấy câu đùa lạnh tanh cơ mà.”

“He he” tôi bật cười.

Hai má Noãn Noãn vẫn đỏ ửng vì lạnh như cũ, trên lông mi dường như có từng xâu hạt băng li ti lấp lánh.

“Noãn Noãn!” Tôi giật nảy mình, đưa tay vỗ nhẹ lên má Noãn Noãn. “Em đông cứng thật rồi đấy à?”

“Nói cái gì thế.”

Noãn Noãn dường như cũng giật nảy mình, hai má ửng đỏ, nhuộm say cả khuôn mặt.

“Lông mi em…” Tôi giơ tay chỉ lên mắt Noãn Noãn.

“À,” Noãn Noãn lập tức hiểu ra, “trời lạnh, lông mi bị kết sương thôi, không sao.”

“Làm anh sợ chết khiếp.” Tôi vỗ vỗ ngực.

“Vậy để em lau nó đi.” Noãn Noãn nói đoạn bèn giơ tay phải lên.

“Đừng lau,” tôi nói, “thế này rất đẹp.”

Tay phải Noãn Noãn khựng lại, rồi từ từ hạ xuống.

Chúng tôi không hẹn mà cùng dừng bước, toàn tâm cảm nhận mùa đông Cáp Nhĩ Tân.

Trời dần tối, nhiệt độ hẳn cũng càng xuống thấp, nhưng tôi không nhận ra.

Chân tay mặt mũi tôi như mất hết tri giác, tôi cảm thấy mình sắp thành tượng băng điêu khắc đến nơi.

“Noãn Noãn,” tôi nói có chút khó khăn, “xem hộ anh xem, có phải anh đông cứng rồi không?”

“Không sao đâu.” Noãn Noãn nhìn tôi một cái. “Mùa xuân đến là ổn ngay.”

“Này” tôi nói.

“Đi ăn cái gì đi” Noãn Noãn bật cười, nói.

Chúng tôi đến một tiệm ăn gần đó, mỗi người gọi một bát mì thịt lợn hầm nóng hôi hổi.

Vị canh thịt được hầm nhừ quện lẫn trong mì, ăn một miếng, hương thơm không gì sánh bằng.

Mặt tôi đã đàn hồi lại, không những có thể tự nhiên nói chuyện, chưa biết chừng còn hô được khẩu hiệu nữa cũng nên.

Ăn xong ra khỏi tiệm ăn, trời đã tối mịt.

Nhưng phố Trung Ương lại biến thành một hành lang ngập sắc vàng.

Dãy cột đèn phỏng theo phong cách châu Âu thế kỷ XIX hai bên phố đều đã sáng đèn, ánh vàng ấm áp chiếu rọi lên những phiến đá hoa cương.

Thả bước trên con đường lát đá, như đang bước vào quang cảnh thể kỷ XIX trong một bộ phim điện ảnh.

Những tòa nhà mang kiến trúc điển hình cũng trang hoàng ánh đèn spot­light, chiếu hắt từ dưới lên nên tuy sáng mà không hề chói mắt.

Ánh đèn spot­light chủ yếu là màu vàng, một vài nơi cũng tăng cường thêm đèn màu xanh lam, đỏ và xanh lục.

Tuy ban ngày mới vừa đi qua con phố này, nhưng lúc này đây con phố đã khoác lên một dáng vẻ hoàn toàn khác.

Những ồn ào huyên náo lúc trước đã không còn để lại chút dấu tích, thay vào đó là một dải huy hoàng xanh vàng rực rỡ.

Tôi tin rằng Cáp Nhĩ Tân về đêm lạnh hơn, nhưng lại có một vẻ đẹp ấm áp.

Tôi bỗng nhiên có cảm giác buồn thương, bởi đã sắp phải rời Cáp Nhĩ Tân mỹ lệ này.

Quay lại nhà thờ Thánh Sophia, tường gạch nung đỏ đã được phủ lên sắc vàng, lớp kính cửa sổ toát lên một màu xanh biếc.

“Noãn Noãn, đẹp thật đấy” tôi không kìm nổi thốt lên tán thưởng.

“Đúng thế” Noãn Noãn nói.

“Câu anh vừa nói, bỏ dấu phẩy đi cũng được” tôi nói.

Noãn Noãn không nói gì, chỉ khe khẽ mỉm cười.

Tôi và Noãn Noãn ngồi trên bậc cầu thang, lặng yên cảm nhận nét dịu dàng cuối cùng của Cáp Nhĩ Tân.

Mùa đông ở Cáp Nhĩ Tân quả thực rất lạnh, nhưng trong lòng tôi, những bông hoa mùa xuân đã nở rộ.


HẾT CHƯƠNG 14
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

24#
Đăng lúc 23-6-2013 15:04:47 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 13



Tôi đứng trong tuyết rất lâu, Noãn Noãn mới huých huých tôi, nói: “Mau về khách sạn thôi, sẽ bị cảm lạnh đấy.”

Trên đường đi về, tuyết vẫn cứ rơi, đường phố nhuốm đầy một màu trắng, cây cối cũng trắng xóa cả.

Tôi muốn nếm thử vị tuyết, bèn ngẩng đầu lên trời, há miệng, lè lưỡi ra.

“Úi chao, mất mặt quá.” Noãn Noãn cười nói: “Hệt con cún.”

“Anh nhớ năm ngoái lúc cùng đi dạo phố ẩm thực, em cũng nói anh như vậy” tôi nói.

“Đúng thế,” Noãn Noãn nói, “anh chẳng thay đổi chút nào.”

“Không, a thay đổi rồi,” tôi nói, “từ cún lớn thành chó rồi.”

Noãn Noãn phì cười, không nói gì nữa.

Noãn Noãn còn phải lái xe về công ty, sau đó mới về nhà.

“Trưa mai, em đến đón anh đi ăn cơm,” Noãn Noãn vừa ngồi vào xe vừa nói.

“Vậy nên mai gặp lại?” tôi nói.

“Đương nhiên là mai gặp.” Noãn Noãn bật cười, rồi lái xe đi.

Một câu mai gặp lại đơn giản như vậy cũng khiến tôi cười từ khi xe lăn bánh cho đến khi bóng xe mất hút tầm mắt.

Tôi về phòng khách sạn, mở cánh cửa sổ kiểu Pháp, bê một chiếc ghế ra ban công.

Pha một tách trà nóng, nằm dựa lên ghế, thưởng thức cảnh tuyết rơi.

Từ trước đến nay chưa từng nhìn thấy tuyết, cũng không biết tuyết thế này là to hay nhỏ?

Đột nhiên cảm hứng ngâm thơ trào dâng, tôi không khỏi thốt lên: “Tuyết rơi…”

Chỉ ngâm được hai từ đó là đứt, vì không biết tiếp thế nào. Nhìn quanh bốn bề, may mà không có ai.

Tôi quả nhiên không có tài thi hứng, gặp phải cảnh đẹp hiếm có nhường này mà vẫn không sao làm thơ được.

Nhớ ra còn phải gọi điện cho Từ Trì, tôi bèn rút điện thoại ra gọi cho cậu ta.

Từ Trì nói 20 phút nữa sẽ đến, đợi tôi dưới sảnh khách sạn, gặp nhau rồi nói

20 phút sau, tôi xuống sảnh, vừa ra khỏi thang máy đã thấy Từ Trì đang ngồi trên ghế so­fa giữa đại sảnh.

“Anh Thái!” Từ Trì đứng lên, dang rộng hai tay. “Nào, ôm anh một cái.”

Ai dà, nếu như câu này do Noãn Noãn nói ra thì tốt biết mấy.

Ôm ấp nồng nhiệt với Từ Trì xong, cậu ta nói: “Trời tối lại có tuyết, có nên làm một chén không nhỉ?”

“Một chén thì được,” tôi cười cười, “hai chén thì say mất.” Từ Trì ra ngoài cửa khách sạn gọi một chiếc taxi chúng tôi chạy thẳng tới chợ Hoa Sen ở Thập Sát Hải.

Năm ngoái giữa trưa hè tôi từng cùng Noãn Noãn tản bộ ven bờ hồ, nhưng giờ là đêm đông, hơn nữa còn là một đêm đông có tuyết rơi.

Từng có bông hoa tuyết chầm chậm rơi trên Thập Sát Hải, lặng thinh không một tiếng động, cũng chẳng lưu lại chút vết tích gì.

Nhớ lại hôm qua lúc đi chơi ở Tây Hồ Hàng Châu nghe người ta nói: Nắng Tây Hồ không bằng mưa Tây Hồ; mưa Tây Hồ chẳng bằng đêm Tây Hồ; đêm Tây Hồ sao bằng tuyết Tây Hồ. Vậy thì tuyết Tây Hồ chắc chắn là đẹp nhất rồi.

Thập Sát Hải liệu có phải cũng vậy không?

Biển hiệu chợ Hoa Sen nhuốm màu xưa cũ, ngạo nghễ đứng giữa những sắc đèn neon sặc sỡ rối mắt; quán bar mang màu sắc ngoại lai mở ở ven hồ đậm phong vị cổ xưa Trung Quốc, tiếng người huyên náo.

Khách khứa quá nửa là người nước ngoài, đến đây trải nghiệm phong vị Trung Quốc, lại có thể thưởng thức cuộc sống về đêm thời thượng.

Bắc Kinh nghìn năm tuổi, gân cốt liệu còn chịu nổi giày vò này chăng ?

Từ Trì vừa ngồi xuống, liền thao thao bất tuyệt kể chuyện của mình.

Chúng tôi vừa uống rượu, vừa nói chuyện quá khứ, hiện tại, rồi cả tương lai.

Tôi nhận ra cả quần áo lẫn cách nói chuyện của Từ Trì đều đã trở nên chín chắn hơn, người nhìn cũng già dặn hơn.

“Suýt nữa thì quên,” Từ Trì đột nhiên nói, “Cao Lượng hôm nay đi Vũ Hán công tác, trước khi đi còn giao em trọng trách xin lỗi anh, đành để lần sau dẫn anh đi leo Trường Thành Tư Mã Đài vậy.”

Nói xong, cậu ta rút từ cặp ra ba tấm ảnh đặt lên bàn, rồi nói: “Cao Lượng gửi anh này.”

Ba bức ảnh này thực chất đều cùng một kiểu, chỉ khác nhau về kích cỡ to, nhỡ, nhỏ.

Tấm to bằng tấm poster; tấm nhỡ rộng chừng 25 xăng ti mét; tấm nhỏ chỉ khoảng nửa bàn tay.

Tất cả chỉ đều là hình Noãn Noãn chụp trên lầu Thất Bắc ở Trường Thành Bát Đạt Lĩnh.

Noãn Noãn đứng thẳng người, hai tay giơ hai chữ V, mặt cười rạng rỡ.

“Cao Lượng nói, cái to để dán tường, cái nhỡ để bày bàn, còn cái nhỏ để bỏ ví.” Từ Trì cười cười.

Máy ảnh và kỹ thuật chụp của Cao Lượng đều rất tốt, vẻ duyên dáng của Noãn Noãn hiện lên sống động trên giấy ảnh.

Tôi vừa vui mừng kinh ngạc, vừa cảm kích vô cùng.

“Nào,” Từ Trì nói, “anh em ta uống vì Cao Lượng một chén.”

“Một chén sao đủ được?” tôi nói. “Ít nhất phải ba chén.”

“Được!” Từ Trì vỗ vỗ ngực. “Ba chén thì ba chén!”

Tôi lập tức nhét tấm ảnh nhỏ vào ví, rồi cẩn thận cuộn tấm to lại, buộc gọn gàng.

Tấm nhỡ thì cứ đặt bên cạnh, cho ngồi cùng tôi cái đã.

Uống với Từ Trì một lúc sau, tôi thấy mặt cậu ta đã đỏ bừng bừng, ánh mắt mơ mơ màng màng, hẳn là say rồi.

Nhớ ra mai cậu ta còn phải đi làm, bèn hỏi: “Trì huynh, nhà cậu ở đâu?”

“Nhà em nơi dốc cao Hoàng Thổ, gió lớn từ sườn dốc thổi qua, dù là gió Tây Bắc hay gió Đông Nam, đều là bài hát của em bài hát của em...” Từ Trì hát lên ông ổng.

Tôi thầm nghĩ hẳn cậu ta say mèm rồi, lại thử hỏi lần nữa: “Cậu ở đâu Bắc Kinh?”

“Nhà em nơi dốc cao Hoàng Thổ, mặt trời đi qua sườn dốc, rọi vào hang em chiếu lên tay em, còn có con trâu theo em...”

Từ Trì vẫn cứ ông ổng hát.

Tôi đỡ Từ Trì, gọi một chiếc taxi đưa chúng tôi trở về khách sạn Đài Loan.

Từ Trì sớm đã ngủ chẳng biết trời trăng gì nữa, đành phải đưa cậu ta lên phòng tôi, quăng xuống giường.

Tôi tắm qua bằng nước nóng, tắm xong ra khỏi phòng tắm, đã thấy Từ Trì ngáy như kéo bễ.

Nhìn đồng hồ, đã gần 1 giờ sáng, lay lay Từ Trì, chẳng thấy cậu ta phản ứng gì.

Dù gì cũng là giường đôi, tối nay đành ngủ cùng Từ Trì vậy.

Tôi gọi điện xuống quầy lễ tân, nhờ họ gọi morn­ing call lúc sáu rưỡi sáng.

Lúc trước ở Đài Loan, nghe nói ở Đại lục gọi morn­ing call là kêu giường, thấy rất thú vị.

Nhớ năm ngoái thầy giáo dạy tiếng Hán đã nói, tiếng Hán đọc xuôi cũng được, đọc ngược cũng xong.

Ở Đại Lục là đọc xuôi, vì vậy kêu giường có nghĩa là “gọi bạn dậy khỏi giường”; nhưng ở Đài Loan là đọc ngược kêu giường lại biến thành “ở trên giường mà gọi”.

Hôm qua đi dạo ở Tây Hồ Hàng Châu, buổi tối trở về Tô Châu, sáng nay đáng ra phải từ Tô Châu tới Thượng Hải rồi về Đài Loan; không ngờ chỉ vì một ý nghĩ nhất thời, mà giờ đã nằm trên giường trong một khách sạn ở Bắc Kinh.

Nhớ đến những vội vàng và tâm trạng thất thường quãng thời gian ấy, cảm giác mệt mỏi nhanh chóng xâm chiếm toàn thân, tôi dần chìm vào giấc ngủ.

Morning call lúc sau rưỡi sáng cùng lúc đánh thức tôi và Từ Trì.

Từ Trì nhận ra đang cùng nằm với tôi trên một chiếc giường, lúc đầu còn thất kinh, sau nhớ lại chuyện đêm qua, bèn bật cười ha hả.

Cậu ta đánh răng rửa mặt qua loa, rồi vội vàng đi làm.

“Vẫn là câu nói cũ,” Từ Trì nói, “lần sau đến Bắc Kinh, nhất định phải báo em đấy.” Nói xong cậu ta lại ôm tôi một cái nồng nhiệt.

Từ Trì vừa mở cửa ra, đã lại quay đầu lại nói: “Anh Thái, cố lên.”

Tôi hiểu ý Từ Trì, liền gật đầu tỏ ý tiếp thu.

Từ Trì đi rồi, tôi lại ngủ tiếp.

Nằm mơ một giấc mơ kỳ lạ, trong mơ hiện ra một quả núi, đại pháo của quân Thanh đang nã xuống chân núi, hai bên khẩu pháo nằm dạt một hàng dân binh, cầm súng ngắm bắn.

Dưới chân núi là mười mấy đội quân Pháp đang tấn công lên.

Tôi và Noãn Noãn đi dạo nơi trên núi, ngang qua đại pháo của quân Thanh, tôi nói với Noãn Noãn: “Chỗ này chính là Noãn Noãn.”

“Cuối cùng anh cũng dẫn em tới Noãn Noãn rồi.” Noãn Noãn cười rất rạng rỡ.

Trong tiếng pháo rền vang, thấp thoáng truyền lại tiếng chuông lanh lảnh.

Như thể giữa phim trường quay cảnh chiến tranh đột nhiên vang lên tiếng chuông di động, thế là đạo diễn tức giận hét lên: “Cut!” Tôi bị tiếng chuông đánh thức, phải mất mấy giây sau mới ý thức nổi đó chắc là chuông cửa.

Tôi mơ mơ màng màng ra mở cửa.

“Vẫn ngủ à?” Noãn Noãn nói. “Sắp trưa rồi kìa.”

Mọi tế bào trên cơ thể tôi lập tức tỉnh táo, quân Pháp cũng bị đánh cho tan tác rồi.

“Hả?” Tôi há hốc miệng. “Ơ…”

“Anh để em đứng đây,” Noãn Noãn bật cười, “hay là xuống dưới sảnh đợi anh?”

Tôi vội vàng mở rộng cửa , Noãn Noãn đi thẳng vào ngồi lên so­fa.

Tôi bắt đầu hối hận, giờ đang lúc binh đao loạn lạc, Noãn Noãn sẽ cười cho xem.

“Cứ từ từ,” Noãn Noãn nói, “đừng vội”

Mặt tôi đỏ dần, vội vàng xông thẳng vào nhà tắm, làm xong hết những việc phải làm trong vòng ba phút.

Tối qua vì sợ thú tính của Từ Trì bộc phát, tôi bê luôn cả sơ mi quần dài đi ngủ.

May không bị Noãn Noãn nhìn thấy cơ ngực với bắp chân, thật nguy hiểm quá.

“Đi thôi” tôi nói.

“Anh mặc thế ra đường à?” Noãn Noãn nói. “Bên ngoài 0 độ đấy.”

Ở lâu trong phòng bật lò sưởi, tôi nhất thời quên mất giờ ở Bắc Kinh đang là mùa đông.

Vội vàng mặc thêm áo len, cầm áo khoác, lúc này Noãn Noãn mới đứng dậy.

Vào thang máy, trùng hợp lại gặp đúng đôi vợ chồng ngoại quốc ở Đông Lai Thuận tối qua

Anh Tây chào tôi một tiếng, hỏi: “Honeymoon?”

“Just lover” tôi nói.

“Friend!” Noãn Noãn vội vàng phủ nhận. “We are just friends!”.

Cặp vợ chồng nọ bật cười, tôi cũng cười, chỉ có Noãn Noãn là giậm chân.

Ra khỏi thang máy, Noãn Noãn đưa cho tôi một thứ: “Cho anh.”

Tôi đón lấy, ra là một chiếc khăn quàng màu ghi đậm.

“Bên ngoài lạnh đấy,” Noãn Noãn nói. “Lát đi ra thì quàng vào”

Quàng khăn bước ra khỏi khách sạn, tôi đột nhiên nhớ ra hôm nay là ngày đi làm.

“Noãn Noãn,” tôi nói, “nếu em bận, anh có thể hiểu mà.”

Noãn Noãn dừng lại, quay sang nhìn tôi nói: “Lẽ nào giờ anh đang được nghỉ hả?”

Tôi lặng người, không trả lời.

“Đi thôi.” Noãn Noãn phì cười.

Sánh vai đi cùng Noãn Noãn mấy bước, trong lòng tôi vẫn lo làm nhỡ dở việc đi làm của Noãn Noãn.

“Lương Lương,” Noãn Noãn lại dừng bước, “lúc tâm trạng không tốt, em thường mong có một cái màng lọc khổng lồ, lọc bỏ hết mọi cảm xúc tiêu cực nào là buồn bã, nào là u sầu, chỉ để lại bản thân thuần khiết thôi.”

Nói xong, Noãn Noãn đưa tay vẽ một ô vuông lớn trước mặt, rồi lại vẽ nhiều những đường thẳng đan xen nữa.

“Cái màng lớn thế này, đủ cho hai người dùng đấy,” Noãn Noãn nói. “Chúng ta cùng nhảy thôi.”

Tôi gật gật đầu, Noãn Noãn đếm một, hai, ba, chúng tôi cùng phi người qua chiếc màng lọc Noãn Noãn vẽ.

Noãn Noãn cười rất vui vẻ, tôi cũng cười.

Lên xe của Noãn Noãn, vẫn là chiếc xe màu trắng của công ty hôm qua.

Tuy tuyết đã ngừng rơi, nhưng đường phố như Ngũ Tử Tư qua Chiêu quan, một đêm tóc đã bạc trắng.

Trên những mái ngói xây theo kiểu cổ phủ dày tuyết, trên cành cây, dưới mặt đất, đâu đâu cũng là tuyết.

Bắc Kinh trở nên thật thanh khiết, một vẻ đẹp tươi mới và tĩnh lặng.

Nhưng người đi bộ trên đường cứ hùng hục, chẳng ai dừng lại thưởng thức cảnh đẹp này.

“Noãn Noãn,” cuối cùng tôi cũng không nén nổi, “có thể dừng xe lại không?”

Noãn Noãn vừa đỗ xe vào sát lề đường, tôi lập tức mở cửa xe, chạy ra giữa trời tuyết mênh mông.

Tôi ngồi thụp xuống, hai tay nắm lấy hai vốc tuyết, cảm nhận vai mình run run.

“Làm gì thế?” Noãn Noãn đứng sau tôi hỏi.

Tôi quay lại, xòe hai tay ra trước mặt em, cười nói: “Là tuyết đấy!”

Noãn Noãn tỏ vẻ bất lực.

Tôi bắt đầu lăn lộn trên tuyết, càng lăn càng thấy vui.

“Mất mặt quá, mau đứng dậy đi!” Noãn Noãn nói.

Tôi ngừng lăn, nằm thẳng cẳng, mặt đất phủ tuyết mềm mại dịu dàng, thật dễ chịu.

“Vứt anh ở đây luôn, kệ anh đấy!” Noãn Noãn lại nói.

Mỗi tay nắm một nắm tuyết, tôi đứng dậy bước đến trước mặt Noãn Noãn, xòe tay ra nói: “Là tuyết đấy!”

Noãn Noãn không biết nên tức hay nên khóc, chỉ “này” một tiếng.

“Để anh bơi trong tuyết đã.” Tôi nói xong bèn nằm bò ra.

“Bị cảm lạnh đấy!” Noãn Noãn căng thẳng, đang đưa tay định kéo tôi dậy thì trượt chân một cái, ngã soài ra tuyết.

“Em cũng muốn chơi hả?” Tôi vê một quả cầu tuyết nhỏ, ném về phía Noãn Noãn, hoa tuyết bay tứ tung.

Noãn Noãn cố đứng lên, nhưng lại trượt ngã, mặt đỏ bừng, nói: “Mau kéo em lên.”

“Đợi tí đã,” tôi nói, “anh phải làm thiên thần trên tuyết.”

“Lương Lương!”

Tôi đưa tay phải ra kéo Noãn Noãn đứng dậy, Noãn Noãn đứng lên phủi phủi tuyết trên người, tiện thể trừng mặt với tôi xong, đột nhiên ngồi thụp xuống nặn cầu tuyết ném tôi.

“Chơi không?” Noãn Noãn nói.

“Em là con gái, anh nhường em năm quả,” tôi nói.

“Được.” Noãn Noãn lại ngồi thụp xuống, nặn xong quả nào là lấy hết sức ném bộp vào người tôi.

Bộp bộp bộp bộp bốn tiếng, tôi vẫn giữ vững tư thế, hệt một bức tượng mỉm cười.

Noãn Noãn ngừng nặn cầu tuyết, phủi hết tuyết trên tay, chỉnh lại đầu tóc quần áo.

“Sao dừng lại rồi?” tôi hỏi.

“Vì anh nhường em năm quả,” Noãn Noãn cười nói, “nên em chỉ ném bốn quả thôi.”

“Hả?” Tôi há hốc mồm.

Noãn Noãn cười rất hỉ hả, bước lại giúp tôi phủi tuyết trên áo và tóc.

“Nếu để người khác nhìn thấy, lại tưởng bọn mình là hai đứa điên ấy chứ” Noãn Noãn nói.

“Đối với anh, nhìn thấy tuyết mà không phát điên thì mới thực sự là điên” tôi nói.

“Hả?”

“Em nhất định không hiểu được người sinh ra ở vùng nhiệt đới như anh có cảm giác gì khi nhìn thấy tuyết đâu.”

“Giờ thì hiểu rồi.” Noãn Noãn bật cười khúc khích.

Tôi lại ngồi bệt xuống, Noãn Noãn không ngăn tôi nữa, tôi dứt khoát nằm lăn ra tuyết.

“Năm ngoái anh nói có lẽ vào mùa đông, là vì muốn tới ngắm tuyết hả?” Noãn Noãn hỏi.

“Không,” tôi nói. “Đó là vì những cuộc hẹn lớn thì nên vào mùa đông.”

“Hả?”

“Ý là thế đấy*.”

* Trong tiếng Trung: “cuộc hẹn lớn” và “có lẽ viết”  đọc giống nhau.

Noãn Noãn thần người, rồi lập tức hiểu ra, nói: “Thế nên hẹn nhỏ vào mùa hè, hẹn nhỡ vào mùa thu phải không?”

“Anh rất hân hạnh,” tôi bật cười, “cuối cùng em cũng theo kịp tính hài hước của anh rồi.”

“Nói nhảm.” Noãn Noãn khẽ hừ một tiếng.

Tôi nhìn lên trời một lúc, quay sang liếc thấy Noãn Noãn đang đứng nhìn tôi.

“Đừng nằm nữa, cảm lạnh đấy,” Noãn Noãn giục, “mau đứng lên đi”

“Không nằm ra đất, sao có thể thấy bầu trời trong xanh của Bắc Kinh?” tôi nói.

“Ồ, miệng cún mọc ra ngà voi rồi kìa” Noãn Noãn bật cười.

“He he” tôi cũng cười.

“Trận tuyết đầu mùa năm nay lớn thật, bao nhiêu cây đều bị đè rắn rồi” Noãn Noãn nói.

“Dưới cây có rắn hả?” tôi rất tò mò, “không thì sao lại đè rắn?”

Noãn Noãn nhặt một cành cây nhỏ, ngồi xuống viết chữ “gãy” lên mặt đất tuyết.

Tôi nhìn chữ “gãy”, bèn hỏi: “Chữ này có thể đọc thành rắn hả?”

“Ở Bắc Kinh đều nói thế.” Noãn Noãn nhún vai. “Rắn thì không sao, chỉ có xe đỗ dưới cây là hứng đủ.”

“Suýt chút nữa thì quên một chuyện quan trọng.” Tôi vội vàng đứng dậy, cầm cành cây Noãn Noãn vừa dùng để viết chữ.

“Quên gì cơ?” Noãn Noãn hỏi.

Tôi lấy cành cây vẽ một hình thiên thần dang cánh bên cạnh chữ “gãy”.

“Này.” Noãn Noãn trừng mắt nhìn tôi.

Tôi còn chưa thỏa, lại viết tiếp bên dưới: Lương Lương. Viết xong bèn đưa lại cành cây cho Noãn Noãn.

Noãn Noãn nhìn tôi, bật cười, rồi viết ngay xuống cạnh chữ Lương Lương: Noãn Noãn.

“Anh cũng tới cầm cành cây đi,” Noãn Noãn nói. “Chúng ta cùng nhắm mắt, viết ra bốn chữ

Tay phải tôi và Noãn Noãn cùng nắm lấy cành cây nhỏ, chúng tôi nhắm chặt mắt, viết từng nét trên tuyết.

Có lúc cảm thấy như Noãn Noãn đang dẫn tôi, có lúc dường như lại là tôi đang dẫn em, nhưng nét bút không hề vì thế mà ngắt quãng.

Viết xong mở mắt ra nhìn, trên tuyết hiện lên bốn chữ rõ ràng: Đều ở Bắc Kinh.

“Cũng may bốn chữ này phồn thể và giản thể không có gì khác biệt” tôi nói.

“Đúng thế” Noãn Noãn nói.

“Ban đầu anh còn tưởng em định viết thiên trường địa cửu chứ” tôi nói.

“Anh mơ vừa thôi.” Noãn Noãn trừng mắt nhìn tôi.

“Lẽ nào là đời đời kiếp kiếp?”

“Lương Lương.”

“Ừ,” tôi nói, “anh im miệng.”

Tôi lại nằm soài ra, Noãn Noãn cũng im lặng ngồi bên tôi.

“Noãn Noãn,” tôi nói, “được gặp em thật là tốt.”

Noãn Noãn cười, không nói gì.

“Nếu anh cứ lặp lại câu này mãi, em lượng thứ cho anh nhé.”

“Được,” Noãn Noãn nói, “em sẽ lượng thứ cho anh.”

“Anh đói chưa?” Noãn Noãn nói.

“Ừ,” tôi nói.

“Đi ăn trưa thôi,” Noãn Noãn nói.

Tôi đang định đứng dậy, thì đột nhiên mặt bỗng lạnh buốt, hóa ra Noãn Noãn nắm một vốc tuyết ném vào mặt tôi.

Nhổ phì phì tuyết trong miệng ra, lau lau mắt kính, đứng lên, đã thấy Noãn Noãn vào xe rồi.

Lên xe, Noãn Noãn vẫn cười khanh khách không dứt.

Tôi nói mặt tôi đông cứng lại rồi, Noãn Noãn nói như vậy tốt quá, để tôi đỡ tiếp tục nói nhảm.

Chẳng bao lâu sau, chúng tôi xuống xe, đi mấy bước liền nhìn thấy biển hiệu “Toàn Tụ Đức”.

Tôi nhớ lại năm ngoái lúc đi dạo xong phố Đại Sách Lan, đứng đợi xe, Noãn Noãn nói lần sau tôi tới Bắc Kinh sẽ đãi tôi ăn vịt quay.

“Noãn Noãn,” tôi nói, “em vẫn còn nhớ à”.

“Đương nhiên rồi” Noãn Noãn nhướn lông mày.

Tới Toàn Tụ Đức đương nhiên phải ăn vịt quay, lẽ nào lại gọi gà rán.

Ngoài vịt quay ra, chúng tôi gọi thêm vài món vịt đặc sắc khác, ngoài ra để tránh dầu mỡ nhiều bị ngấy, còn gọi cả ít rau xanh.

Món vịt quay được đưa lên, đầu bếp còn đặc biệt đến tận bàn cắt từng lát thịt vịt, thật là quá đã.

Tôi gộp chung phần bữa sáng với bữa trưa lại ăn, Noãn Noãn thấy tôi ăn ngon miệng, nói ở Toàn Tập Đức là vịt quay treo bếp, ngoài ra còn có loại vịt quay trong lò ở các cửa hàng rẻ hơn, có cơ hội cũng nên đi nếm thử, mùi vị hoàn toàn không giống nhau.

Bữa này cũng hệt bữa tối qua, tôi ăn no căng bụng.

Lấy cớ vào nhà vệ sinh, tôi lén đi thanh toán.

“Lương Lương,” Noãn Noãn nói giọng trách cứ, “sao anh lại tranh trả tiền nữa?”

“Noãn Noãn,” tôi nói, “Đài Loan có một truyền thống, nếu lần thứ hai cùng con gái đi ăn mà để con gái trả tiền, người con trai sẽ bị đen đủi suốt hai tháng.”

Noãn Noãn sững người, rồi lập tức bật cười, nói: “Hóa ra tối qua cũng là anh nói bừa.”

Ra khỏi Toàn Tụ Đức, Đại Sách Lan ở chếch ngay đối diện.

“Đi dạo chút đi.” Noãn Noãn lên tiếng.

“Ừ.” Tôi gật đầu.

Đại Sách Lan vẫn chẳng thay đổi gì, chỉ thêm vài cửa hàng bán quần áo giá rẻ.

Nét thuần khiết tôi và Noãn Noãn từng có ở đây năm trước hẵng còn, điều này khiến chúng tôi dường như đều thở phào nhẹ nhõm.

Vòng đi vòng lại một lượt, chúng tôi lại ngồi trước Đồng Nhân Đường nghỉ chân.

Điện thoại Noãn Noãn đổ chuông, tôi đứng lên đi ra phía khác cách mười bước, Noãn Noãn nói chuyện điện thoại, chốc chốc lại ngẩng đầu nhìn tôi.

Ngắt máy xong, tôi nhận ra Noãn Noãn nhíu mày.

“Sao thế?” Tôi bước lại bên Noãn Noãn.

“Sếp kêu em đi phỏng vấn mấy người,” giọng Noãn Noãn nghe có vẻ hờn trách. “Em đã nói trước ông ấy rồi, mấy ngày này đừng gọi em, có việc thì kêu người khác ấy.”

“Sếp em nói sao?”

“Sếp nói, cô là người khác, người khác chính là cô.”

“Thâm thúy thật.”

“Đúng thế.”

Noãn Noãn im lặng, dường như rất khó xử.

“Noãn Noãn,” tôi nói, “nếu không cản trở công việc của em, anh đi cùng em có được không?”

Noãn Noãn có vẻ kinh ngạc, quay sang nhìn tôi.

“Anh nghĩ em hẳn cảm thấy nếu không đi cùng anh thì không phải lắm, nhưng lỡ dở công việc thì cũng phiền, vì vậy nếu anh đi cùng em thì chẳng phải nhất cử lưỡng tiện còn gì,” tôi nói. “Đương nhiên là nếu không cản trở gì việc của em.”

“Em biết ngay anh sẽ nói thế mà.” Noãn Noãn nhìn nhẹ nhõm hẳn. “Đương nhiên là không cản trở gì rồi.”

“Vậy thì cứ coi anh là con bọ chét đi.” Tôi cười cười.

“Tốt quá rồi,” Noãn Noãn cười, “nhưng em phải nhờ người mua thêm vé tàu hỏa.”

“Vé tàu hỏa?” Tôi rất hiếu kỳ. “Không phải là ở Bắc Kinh à? Chúng ta sẽ đi đâu?”

“Cáp Nhĩ Tân,” Noãn Noãn nói.

“Cáp… Cáp…” tôi lắp bắp, “Cáp Nhĩ Tân?”

“Là Cáp Nhĩ Tân, không phải là Cáp Cáp Cáp Nhĩ Tân.” Noãn Noãn cười rất vui vẻ. “Chỉ một chữ Cáp thôi.”

Tôi đứng sững như trời trồng, mãi lâu sau vẫn chẳng nói nổi nên lời.

Từ Bắc Kinh tới Cáp Nhĩ Tân gần 1248 cây số, tám rưỡi tối có một chuyến tàu tốc hành chạy thẳng đến đó, 7 giờ 5 phút ngày hôm sau đến Cáp Nhĩ Tân, phải ngồi 10 tiếng 35 phút đồng hồ.

Đầu tiên, Noãn Noãn nhờ người mua hai vé giường nằm mềm tầng dưới, rồi chúng tôi trở về khách sạn, lên phòng chuẩn bị hành lý.

Trả phòng trước hai đêm, đổi sang đặt phòng vào ngày kia, đem va li xuống ký gửi dưới tầng một của khách sạn.

Ra khỏi khách sạn, Noãn Noãn nhìn tôi, nói: “Phải mua cho anh một đôi găng tay.”

“Không cần đâu,” tôi nói, “anh đút tay vào túi áo là được rồi.”

“Ừm,” Noãn Noãn gật đầu, “vải da chống lạnh tốt đấy.”

“Đút hai tay vào túi áo, cũng hệt như đút vào găng tay thôi” tôi nói.

“Loại da nào nhỉ?” Noãn Noãn nghiêng đầu suy nghĩ một hồi, “da cừu đi.”

“Đừng tốn tiền mua găng tay” tôi nói.

“Cứ vậy đi.” Noãn Noãn cười cười. “Ra phố Vương Phủ Tỉnh mua.”

“…”

Noãn Noãn hoàn toàn chẳng buồn nghe tôi nói.

Noãn Noãn giúp tôi chọn một đôi găng tay da cừu trên phố Vương Phủ Tỉnh.

Lần này em đã học được rồi, động tác trả tiền nhanh gọn dứt khoát, không cho tôi bất kỳ cơ hội

“Anh còn cần mũ nữa,” Noãn Noãn nói.

“Đừng tiêu tiền nữa,” tôi nói.

“Yên tâm,” Noãn Noãn nói, “em có hai cái mũ.”

Tôi và Noãn Noãn về chỗ em ở, tôi đợi em dưới tầng.

Noãn Noãn sắp xếp xong đồ dùng cá nhân cần thiết rồi đi xuống, đưa cho tôi một chiếc mũ len màu đen.

Sau đó tôi tới chỗ Noãn Noãn làm việc, Noãn Noãn bảo tôi ngồi ở so­fa đợi em, dặn dò: “Đừng nói năng linh tinh đấy.”

“Nói năng linh tinh là thế nào?” tôi hỏi.

“Ví dụ như, nếu người ta hỏi quan hệ giữa em với anh là gì, anh đừng có nói em là người yêu của anh.”

“Ờ, anh hiểu rồi,” tôi nói, “không được nói em là người yêu của anh, phải nói anh là người yêu của em.”

“Quyết định thế này đi,” Noãn Noãn nói, “anh không được nói bất kỳ câu gì.”

Chỉ thấy Noãn Noãn chạy đông chạy tây, chỉnh lý tài liệu, chuẩn bị máy móc, rồi lại chạy đi thảo luận với sếp vài việc.

“Đi được rồi.” Noãn Noãn cuối cùng cũng xong việc. “Anh có nói linh tinh gì không đấy?”

“Anh nghe lời em, không nói câu nào,” tôi nói.

“Thế thì tốt.” Noãn Noãn bật cười.

“Kết quả mọi người đều nói người yêu của Noãn Noãn đáng thương quá, bị câm.”

“Anh…”

Ra khỏi tòa nhà Noãn Noãn làm việc, trời cũng đã tối.

Vẫn còn cách giờ tàu chạy một lúc nữa, chúng tôi đang định kiếm cái ăn, thì vừa may phát hiện ra một quầy thịt dê nướng.

Tôi và Noãn Noãn mỗi người mua năm xiên thịt dê, đứng ăn bên lề đường như một cặp vợ chồng nghèo khổ.

Đúng lúc đấy điện thoại tôi đổ chuông, nhìn màn hình hiển thị, là cậu em khóa dưới.

“Anh, ra ngoài ăn cơm đi,” cậu ta nói.

“Anh ở Bắc Kinh rồi” tôi nói.

“Thật không?” Cậu ta rất kinh ngạc.

“Ừm,” tôi ậm ừ.

“Đi dự lễ cưới của Noãn Noãn hả?” Cậu ta cười sằng sặc.

“Này.”

“Thế thì không sao rồi, nhớ giúp em hỏi thăm Vương Khắc nhé, tiện thể xem cô ấy sống thế nào.”

“Vương Khắc cưới chồng rồi.”

“Anh thôi đi.”

“Không tin, tôi cho cậu nói chuyện với Vương Khắc.”

Tôi đưa điện thoại cho Noãn Noãn.

“Mình là Vương Khắc,” Noãn Noãn bịt mũi nói, “mình lấy chồng rồi.” Noãn Noãn nói xong, không nhịn được phì cười, trả điện thoại lại cho tôi.

Cậu em đang bù lu bù loa trong điện thoại là không thể nào, như thế quá tàn nhẫn.

“Tôi với Noãn Noãn đùa cậu thôi” tôi vừa cười vừa nói.

“Đùa thế chết người đấy.”

“Được rồi. Vậy đã nhé.”

Ngắt máy xong, tôi và Noãn Noãn nhìn nhau, cùng lúc bật cười ha hả.

“Noãn Noãn,” tôi nói, “được gặp em thật là tốt.”

“Em lượng thứ cho anh.” Noãn Noãn lại bật cười.

Ngồi lên xe taxi, tôi và Noãn Noãn chạy thẳng tới ga tàu hỏa Bắc Kinh.

Ga rất lớn, dòng người chen chúc tấp nập, Noãn Noãn dẫn tôi đi loanh quanh một hồi mới vào được sân ga.

Đường ray tàu hỏa ở Đài Loan là đường ray hẹp, đường ở đây rộng hơn một chút, chắc là đường ray tiêu chuẩn.

Lên tàu hỏa, tìm đến cab­in của chúng tôi, mở cửa ra xem, hai bên trái phải mỗi bên có hai tầng giường.

Đối diện với cửa là khung cửa sổ bằng kính, trước cửa sổ có một cái bàn nhỏ.

Bên trên cửa có một chỗ trống để đặt va li lớn.

Tôi và Noãn Noãn ngồi xuống hai chiếc giường tầng bên dưới, khoảng cách giữa đầu gối hai bên còn chưa đủ cho một người lách qua.

Một cặp vợ chồng trung niên kéo một cái va li cồng k bước vào, người chồng leo lên giường trên trước, tôi ở phía dưới nâng cao va li, để ông đỡ lấy, đặt vào khoang hành lý.

“Cảm ơn chú nhé” ông chồng nói.

“Không có gì ạ” tôi nói.

Nhân viên phục vụ cũng bước vào, chào hỏi, đưa cho mỗi người chúng tôi một túi đồ rồi đi ra.

Bên trong có dép lê giấy, xà phòng bàn chải đánh răng, kem đánh răng, một cục tròn tròn sau khi ngâm nước có thể mở thành khăn mặt, có cả một gói đậu phộng.

Tôi và Noãn Noãn cởi giày ra, xỏ chân vào chiếc dép giấy, ngồi trên giường ăn đậu phộng.

Đầu giường có một màn hình tinh thể lỏng 10 inch, có thể phát ra vài kênh, nhưng chất lượng thu sóng đều chẳng ra sao.

Vất vả cả một buổi chiều, giờ cuối cùng cũng có thể nghỉ ngơi rồi, thậm chí còn bắt đầu có cảm giác đang đi du lịch.

Một tiếng động trầm đục vang lên, tàu hỏa đã khởi hành, tôi và Noãn Noãn đều nhoẻn miệng cười.

Hỏi Noãn Noãn giường cứng với giường mềm khác nhau thế nào, có phải là ở đệm cứng với đệm mềm không?

Noãn Noãn nói đệm không khác nhau là mấy, nhưng bên trong cabin giường cứng có ba tầng giường, một cabin có tới sáu người.

“Chúng ta đi ăn gì đi.” Noãn Noãn đứng dậy.

“Ừ.” Tôi cũng đứng dậy.

Chúng tôi đi xuyên qua mấy toa tàu tới khoang ăn, tàu đi êm ru, cả đường đi chẳng hề nghiêng lắc gì.

Trong khoang ăn rất đông người, tôi Noãn Noãn tìm một chỗ ngồi xuống, gọi hai bát mì.

Chỗ ngồi rất hẹp, tôi và Noãn Noãn ngồi đối diện ăn mì, giữa chừng không cẩn thận đụng ngay vào đầu nhau, làm chúng tôi bật cười ha hả.

“Lúc này ở Đài Loan có truyền thống gì không?” ăn mì xong, Noãn Noãn hỏi.

“Ở Đài Loan có truyền thống, nếu đi ăn với con gái lần thứ ba mà để con gái trả tiền, người con trai sẽ xui xẻo một tháng,” tôi nói.

“Thế lần thứ tư thì sao?”

“Lần thứ tư thì đổi sang con gái bị xui xẻo.”

Noãn Noãn nói chỉ ba lần này thôi đấy, lần sau đừng có giành trả tiền nữa.

Tôi gật gật đầu, trả tiền mì.

Quay lại cabin, ngoài cửa sổ tối đen như mực, một chút ánh sáng le lói cũng không thấy.

Thường hay nghe nói đất đen Đông Bắc, nhưng giờ xem ra cái gì cũng đen cả.

Noãn Noãn lôi ra một bộ bài poker, cười cười nói: “Làm ván xì tố *.”

*Một kiểu chơi bài poker.

Tôi quá đỗi kinh ngạc, chăm chú quan sát vẻ mặt Noãn Noãn mà không ra chút gì bất thường.

“Sao nào?” Noãn Noãn nghi hoặc.

“Không sao,” tôi nói, “chơi thôi.”

Chơi xì tố hai người còn gọi là xì tố trăng mật, tôi chắc hẳn cái này mọi người đều biết rồi.

Vốn dĩ đây là trò chơi giết thời gian của đôi vợ chồng mới cưới trong tuần trăng mật.

Hơn nữa còn có một quy định, ai thua phải cởi một phần quần áo.

Cứ vậy đánh xong mấy ván, quần áo đôi bên đều đã cởi ra hòm hòm, lên giường ngủ cũng tiện hơn nhiều.

Cũng là để tránh cho vợ chồng mới cưới khỏi thấy ngượng ngùng lúc cởi quần áo lên giường đi ngủ.

Noãn Noãn chắc không hiểu luật lệ này, tôi vừa đánh bài vừa băn khoăn không biết có nên nói cho em biết không?

Không ngờ trình chơi bài của Noãn Noãn quá đỉnh, tôi liên tiếp thua hơn mười ván, bị em cho tắt điện.

Nếu phải cởi thật, hẳn tôi đã trần như nhộng từ lâu, ngay đến tự trọng cũng phải cởi nốt rồi.

May mà không nói, may quá.

Cặp vợ chồng trung niên giường trên đã ngủ, Noãn Noãn cũng tắt đèn trong cabin.

Cả không gian toàn một màu đen, ngoài cửa sổ cũng vậy.

Chỉ có tiếng bánh tàu hỏa nghiến xuống đường ray, đều đều, đều đều.

Trong bóng tối, tôi nhìn khuôn mặt Noãn Noãn, đôi chút mơ ảo, đôi chút mơ màng.

Chúng tôi thì thào nói chuyện, tiếng Noãn Noãn vừa khẽ vừa mảnh, như truyền lại từ nơi nào đó xa xôi.

Noãn Noãn nói ngày mai phải bận cả ngày, mau ngủ thôi.

Tôi đặt chuông báo thức điện thoại, sợ ngủ một giấc tỉnh lại đã đến Siberia rồi.

Noãn Noãn nói chuyến tàu này chạy thẳng đến Cáp Nhĩ Tân, tàu dừng nghĩa là đến Cáp Nhĩ Tân rồi, không đi tiếp đến phương Bắc đâu.

“Nhỡ may đến Siberia thật thì vẫn còn có em mà” Noãn Noãn nói.

“Ừ,” tôi nói, “như thế Siberia sẽ có mùa xuân rồi.”

Noãn Noãn mím môi cười khe khẽ, mắt sáng long lanh, như vì sao trên bầu trời đêm.

Tôi nằm xuống giường, nhắm mắt lại, Noãn Noãn chắc cũng nằm xuống rồi.

“Lương Lương,” Noãn Noãn nói.

“Ừ?”

“Xin lỗi anh nhé, kéo anh tới tận Cáp Nhĩ Tân xa lắc lơ.”

“Cáp Nhĩ Tân có xa đâu, khoảng cách giữa trái tim mới xa.”

“Thế anh đoán xem em đang nghĩ gì?”

“Chắc chắn em đang nghĩ ngày mai nhanh nhanh chóng chóng làm xong việc, rồi còn dẫn anh đi chơi.”

“Còn gì nữa?”

“Em cũng đang nghĩ xem nên dẫn anh đi chơi đâu.”

“Còn gì nữa?”

“Anh mặc ít quần áo, em lo anh sẽ bị cảm lạnh.”

“Đều bị anh đoán trúng rồi.” Noãn Noãn lại cười.

“Vậy em đoán xem anh đang nghĩ gì?” tôi nói.

“Chắc chắn anh đang nghĩ, tới Siberia rồi làm sao nói chuyện được với mấy cô gái Nga.”

“Em lợi hại thật đấy.” Tôi bật cười. “Còn gì nữa?”

“Có lẽ anh cảm thấy như đang nằm mơ” Noãn Noãn nói.

Tôi quá đỗi kinh ngạc, bất giác mở bừng mắt, như nửa đêm đột nhiên tỉnh dậy chỉ nhìn thấy toàn một màu đen.

“Lương Lương.”

“Ừ?”

“Anh không mơ đâu, em là thật đấy, mà còn ở ngay bên anh nữa,” Noãn Noãn nói. “Không tin anh đưa tay ra sờ mà xem.”

Tôi giơ tay phải ra, cánh tay chậm chạp rờ rẫm trong bóng đêm, cuối cùng cũng chạm vào bàn tay Noãn Noãn.

Noãn Noãn nhẹ nhàng nắm lấy tay tôi.

“Ấm không?” Noãn Noãn hỏi.

“Ừ.” Sau đó mu bàn tay bỗng thấy hơi đau nhói, tôi đoán là Noãn Noãn đã lấy móng tay cấu vào mu bàn tay tôi.

“Đau không?” Noãn Noãn hỏi.

“Ừ.”

“Thế nên anh không nằm mơ đâu, em là thật đây, mà còn ở ngay bên anh nữa,” Noãn Noãn lại lặp lại lần nữa.

Trái tim dao động của tôi, từ từ ổn định lại, như vừa cập cảng buông

“Noãn Noãn,” trong bóng đêm, tôi nói, “được gặp em thật tốt.”

“Em lượng thứ cho anh” Noãn Noãn đáp lại trong bóng đêm.


HẾT CHƯƠNG 13
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
Đăng lúc 22-6-2013 22:21:25 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 12



Tô Châu cách Bắc Kinh gần 1379 km, 8 giờ tối lên tàu hỏa tốc hành ở Tô Châu, đến 7 giờ 20 phút sáng hôm sau mới tới Bắc Kinh, phải ngồi mất 11 tiếng 20 phút đồng hồ.

Quá lâu.

Tôi quyết định trước tiên cứ cùng đồng nghiệp ngồi xe của nhà máy từ Tô Châu đến Thượng Hải, rồi từ Thượng Hải bay đến Bắc Kinh.

Vé máy bay đắt một chút, nhưng nhanh hơn nhiều.

Dù gì tiền kiếm lại là được, còn thời gian thì một đi không trở lại.

Tôi trả vé bay Thượng Hải – Hồng Kông – Đài Loan, đổi thành vé Thượng Hải – Bắc Kinh.

Khách sạn ở Bắc Kinh cũng đã đặt xong, có một đồng nghiệp Tô Châu rất thông thuộc Bắc Kinh, tôi nhờ cậu ta đặt giúp phòng.

Mấy kỹ sư Đài Loan cùng đoàn rất ngạc nhiên chuyện tôi không cùng về Đài Loan với họ, xôn xao hỏi tôi đã xảy ra chuyện gì?

Tôi tưởng tượng mình là võ sĩ Tà Dương * đối diện với biển lớn, thâm trầm nói: “Vì yêu đi đến chân trời.”

*Một bộ phim của New Zealand, tên tiếng Anh: Once Were Warriors.

Chỉ thiếu mỗi chẳng có biển lớn trước mặt.

Tôi nhờ mọi người về đến Đài Loan thì giúp tôi xin nghỉ phép, rồi bọn họ bay về Đài Loan, tôi bay đến Bắc Kinh.

Tôi gọi điện cho Từ Trì, cậu ta vừa nghe thấy tôi sắp tới Bắc Kinh, bèn nói sẽ tới sân bay đón tôi.

“Như thế không tiện lắm” tôi nói.

“Thôi đi,” Từ Trì nói, “anh gọi điện cho em, chẳng phải là mong em đến sân bay đón anh còn gì?”

“He he” tôi bật cười.

Sau đó tôi lại gọi cho “Noãn Noãn,” tôi nói, “anh rời Tô Châu rồi, giờ đang ở sân bay Thượng Hải.”

“Thật không?” Noãn Noãn nói. “Vậy chúc anh thượng lộ bình an.”

“Noãn Noãn,” tôi cố ổn định lại nhịp tim và giọng nói của mình, “mấy hôm nay có bận không?”

“Bận lắm” Noãn Noãn nói.

“Ờ, vậy ngày nào em cũng không có thời gian rảnh nhỉ.”

“Đúng thế. Em còn đang hận không thể mọc thêm hai tay nữa đây.”

“Nhỡ lúc này lại có một người bạn cũ muốn gặp em, em nhất định phải khó xử lắm.”

“Cũng chẳng còn cách nào khác. Đành phải nói: Không may rồi, đang bận lắm.”

Trái tim tôi thoắt cái đã rơi xuống đáy, ngã oạch một cái rõ đau, tôi không nói nổi gì nữa.

“Mau nói cho em biết anh bay chuyến mấy giờ,” Noãn Noãn nói.

“Cái đó không còn ý nghĩa gì nữa rồi” tôi nói.

“Linh tinh gì thế, anh không nói làm sao em đến đón anh được?”

“Hả?” Tôi sững người. “Ơ…”

“Xem anh ngơ ra kìa, em đương nhiên phải tới sân bay đón anh rồi.”

“Em biết anh sẽ tới Bắc Kinh à?”

“Chút ý đó của anh, em còn không đoán ra sao?” Noãn Noãn bật cười.

“Vừa nãy đùa anh cho vui thôi.” Noãn Noãn vẫn cười không dứt.

“Em thật xấu gớm.”

“Anh mới xấu ấy. Định đến Bắc Kinh cũng không nói sớm đi.”

Tim lại đập nhanh, tôi bất giác đưa tay lên vỗ vỗ ngực.

Tôi nói với Noãn Noãn, mình bay chuyến mấy giờ, mấy giờ thì đến Bắc Kinh, Noãn Noãn vừa nghe vừa cười, xem chừng rất vui vẻ.

Tôi cũng rất vui, vừa xuống máy bay là đã có thể nhìn thấy Noãn Noãn, quả thực hạnh phúc hơn nhiều so với dự kiến.

“Noãn Noãn,” tôi nói, “anh sắp tới Bắc Kinh tìm em đây.”

“Ừ. Em đợi anh” Noãn Noãn nói.

Cầm thẻ lên máy bay, vai đeo ba lô, tôi sắp đến bên Noãn Noãn rồi.

Lúc xếp hàng đợi lên máy bay, đột nhiên nhớ ra phải nói với Từ Trì không cần đến đón tôi nữa, vội vội vàng vàng móc điện thoại di động ra.

Tôi nói với Từ Trì, Noãn Noãn sẽ tới đón tôi, không cần làm phiền cậu ta nữa.

“Em hiểu rồi,” Từ Trì cười rất mờ ám, “hi hi.”

“Anh phải lên máy bay đây” tôi nói.

“Muộn thế nào, cũng phải nhớ gọi điện cho em đấy” Từ Trì nói.

Tắt điện thoại, tôi lên máy bay.

Định nhắm mắt nghỉ ngơi, nhưng tâm trạng hào hứng khó mà bình tĩnh cho nổi.

Thời gian chậm rãi trôi qua, máy bay vẫn về phương Bắc, càng lúc càng xa Đài Loan, nhưng cũng càng lúc càng gần Noãn Noãn.

Nhịp tim của tôi tỉ lệ nghịch với khoảng cách giữa máy bay và Bắc Kinh.

Một tiếng động trầm truyền tới, máy bay hạ cánh rồi, chầm chậm chạy trên đường băng, tim tôi đập thình thịch.

Võ sĩ Tà Dương xách kiếm, không, xách ba lô, thở ra một hơi dài, điều hòa lại nhịp tim.

Kéo va li bước về phía trước, tay phải bất giác run run, chiếc va li cũng vì thế hơi lắc lư chao đảo.

Không biết Noãn Noãn giờ nhìn thế nào? Có còn nụ cười như trước đây nữa không?

Tôi rất muốn kích động nhìn quanh bốn phía tìm Noãn Noãn, nhưng đó không phải là phong cách của võ sĩ Tà Dương.

Tôi chỉ có thể giả vờ điềm tĩnh, lợi dụng khóe mắt quét khắp lượt những gương mặt đang đợi chờ ở sân bay.

Thế rồi, tôi nhìn thấy Noãn Noãn.

Cảm thấy như dòng máu đang sôi sục, con tim cũng sắp vọt khỏi miệng ra ngoài.

Chỉ còn vài bước nữa thôi, tôi phải trầm tĩnh, tôi phải lạnh lùng, tôi phải kiên cường.

Tôi không thể vứt xoạch va li, vừa hò hét tên Noãn Noãn vừa dang đôi tay bay đến chỗ em, bởi tôi là võ sĩ Tà Dương.

Noãn Noãn nở nụ cười dịu dàng, hai tay cầm tấm bìa trắng bên trên viết to hai chữ Lương Lương, lắc lắc trước ngực.

Tóc Noãn Noãn có vẻ dài hơn một chút, nhưng nụ cười của em vẫn hệt như trong những bức hình, hay trong ký ức của tôi

Tôi thậm chí còn nghi ngờ dù cho lông mày của em có tăng thêm một sợi, tôi cũng có thể nhận ra được.

Tôi vẫn giữ những bước đi vững chãi, điềm tĩnh bước tới trước mặt Noãn Noãn, rồi dừng lại.

Noãn Noãn cũng dừng lắc lắc tấm bìa trong tay.

“Hi, Lương Lương” Noãn Noãn nói.

“Hi, Noãn Noãn” tôi nói.

“Đi thôi” Noãn Noãn nói.

Tôi kề vai đi bên Noãn Noãn, hai chân vì quá phấn khích mà có chút cứng đờ.

“Cầm bảng làm gì thế?” tôi hỏi.

“Sợ anh không nhận ra em.”

“Em có hóa thành tro anh cũng nhận ra.”

“Câu này không dùng như vậy đâu” Noãn Noãn bật cười khanh khách.

“Ở Đài Loan dùng thế đấy” tôi nói.

“Anh cũng chẳng thay đổi gì cả. Anh vừa đi ra, em đã nhận ra rồi” Noãn Noãn nói.

“Anh vẫn sang trọng thế hả?” tôi nói.

“Lương Lương.” Noãn Noãn phì cười. “Nhớ lấy, đây là câu nói đùa đầu tiên của anh khi tới Bắc Kinh.”

“Cái bảng này cool thật đấy.” Tôi chỉ chỉ tấm bìa trong tay Noãn Noãn.

“Đúng thế,” Noãn Noãn bật cười, “bao nhiêu người đang nhìn em đây.”

“Đó là vì em xinh.”

“Đây là câu nói thật đầu tiên của anh khi tới Bắc Kinh,” Noãn Noãn lại cười, “nhớ lấy.”

Vừa bước khỏi cửa sân bay, gió lạnh đã thốc tới, tôi bị lạnh, không khỏi hắt hơi mấy cái.

“Anh mặc thế này phong phanh quá” Noãn Noãn nói.

“Anh nghĩ tới ở Tô Châu sẽ chẳng lạnh lắm, hơn nữa cuối thu đầu đông là về Đài Loan, nên không đem theo áo khoác dày.”

“Bắc Kinh lạnh hơn nhiều. Giờ mới 2 độ thôi.”

“Là 2 độ như mai khai nhị độ * á?”

* Mai khai nhị độ: Thành ngữ, chỉ cùng một việc, hai lần đều thành công.

“Đúng thế.”

“May thật,” tôi nói, “lần này anh đến Bắc Kinh, cũng coi như mai khai nhị độ rồi.”

“Lương Lương.”

“Anh biết rồi. Đây là câu nói nhảm đầu tiên của anh khi tới Bắc Kinh. Anh sẽ ghi nhớ.”

Vào bãi đỗ xe, Noãn Noãn bước về bên trái hơn chục bước rồi dừng lại, quay đầu bước về bên phải.

Nhưng bước được mấy bước, lại dừng lại, nhìn quanh bốn phía.

“Sao thế?” tôi hỏi.

“Em quên mất đỗ xe ở đâu rồi” Noãn Noãn nói.

“Hả?” Tôi vô cùng kinh ngạc. “Quên rồi?”

“Cũng không hẳn là quên sạch,” Noãn Noãn giơ tay vẽ một vòng tròn trên không trung, “chắc là quanh khu này.” Trí nhớ của Noãn Noãn rất rộng, “khu này” mà em nói, ít ra cũng có tới 200 chiếc xe.

“Là xe gì? Biển số là bao nhiêu?” tôi nói. “Anh tìm giúp em.”

“Là xe bốn bánh.” Noãn Noãn nói.

“Này.”

“Là xe của công ty, không phải của em,” Noãn Noãn nói. “Em không biết xe gì, cũng chẳng nhớ biển số.”

“Vậy em biết cái gì?”

“Là xe màu trắng.”

Tôi nhìn quanh bốn phía, tuy tỷ lệ xe màu trắng không cao, nhưng cũng không phải ít.

“Đây…”

“Ui chao, nếu không phải đi muộn quá, trên đường đi còn tắc, em sốt ruột, sợ anh xuống máy bay không thấy em, anh sẽ hoảng, không cũng đâu hồ đồ thế này. Em dừng xe rồi vội vội vàng vàng xông vào sân bay, chỉ mong sớm gặp anh, làm gì còn tâm trí đâu nhớ đến xe để chỗ nào.”

Noãn Noãn liến thoáng nói, giọng có vẻ lo lắng, âm điệu cũng hơi cao.

Từ lúc xuống máy bay nhìn thấy Noãn Noãn, mọi thứ đối với tôi đều như trong mơ, không hề chân thực.

Phải đến lúc này, tôi mới cảm thấy Noãn Noãn thực sự tồn tại.

Noãn Noãn vẫn hệt như trước, chẳng hề có chút cảm giác phương hướng, luôn khiến người khác thấy lòng ấm áp.

Từ Đài Loan tới Tô Châu, từ Tô Châu tới Bắc Kinh, vượt qua 3000 cây số, cuối cùng tôi cũng có thể nhìn thấy Noãn Noãn rồi.

Đây không phải là mơ.

“Hì hì” tôi bật cười.

“Anh cười cái gì?” Noãn Noãn dường như đã hơi đỏ mặt.

“Không có gì,” tôi nói, “chúng ta cùng tìm đi. Nếu không thấy thì cả đời phải ở đây mất.”

“Đừng có nói nhảm.”

Tôi và Noãn Noãn tìm từng chiếc xe một, 20 phút sau, Noãn Noãn mới nhận ra xe mình qua thẻ căn cước trên kính xe.

Nhưng vị trí của chiếc xe màu trắng này, lại chẳng hề nằm trong “khu” mà Noãn Noãn vừa dùng tay vẽ.

“Tháng trước em vừa lấy bằng lái, giờ cho anh trải nghiệm, được không?” vừa lên xe, Noãn Noãn liền nói.

“Đây là vinh hạnh của anh,” tôi nói.

Rời sân bay thủ đô, xe chạy lên đường cao tốc, hai hàng cây bạch dương bên đường dường như đều đã rụng hết lá.

Thân cây thẳng muốt thẳng tắp, cành cây mềm dẻo, lay động trong gió rất đáng yêu, như một mỹ nữ e lệ.

“Anh ở khách sạn nào?” Noãn Noãn hỏi.

“Anh quên rồi,” tôi nói.

“Quên rồi?” Noãn Noãn vô cùng kinh ngạc.

“Ui chao, nếu không phải đột nhiên quyết định không về Đài Loan, vội vội vàng vàng tới Bắc Kinh tìm em, nhưng xuống máy bay xong em lại không tìm thấy xe, anh lo em sẽ hoảng, chẳng tâm trí đâu mà nhớ tới khách sạn nữa, không cũng đâu hồ đồ thế này.”

Noãn Noãn cười rũ ra không dứt, khó khăn lắm mới ngừng cười, nói: “Lương Lương.”

“Ừ.”

“Anh ở khách sạn nảo?”

“Khách sạn Đài Loan ở Vương Phủ Tỉnh” tôi nói.

“Chỗ đấy em biết.”

“Biết thật không?”

“Chớ coi thường em” Noãn Noãn nói.

“Không tìm ra cũng không sao, cùng lắm anh ngủ trong xe cũng được.”

“Không lạc đâu mà sợ” Noãn Noãn bật cười.

Trời dần tối, bắt đầu đổ mưa, không to cũng chẳng nhỏ.

Bên ngoài hẳn phải rất lạnh, nhưng trong xe có máy sưởi, lại thêm cả Noãn Noãn, nên rất ấm áp.

Tôi và Noãn Noãn tán chuyện trong xe, nói đông nói tây, trời nam đất bắc, rồi đông tây nam bắc đều nói cả.

Trời đã tối hẳn, dưới ánh đèn đường, tôi có thể nhìn rõ từng làn mưa.

Có thể là ảo giác, tôi bỗng thấy mưa ở trên cao khá mảnh và nhỏ, rơi gần xuống đất lại trở nên lớn và thô, tốc độ cũng chậm đi.

“Đường Nhị Hoàn lại tắc rồi” Noãn Noãn nói.

“Dù gì chúng ta cũng đã gặp nhau rồi,” tôi nói, “có tắc đến thiên hoang địa lão cũng chẳng sao.”

Xe đã dừng hẳn lại, Noãn Noãn quay sang tôi cười khổ.

“Nếu nghĩ đến con lăn bánh xe, là tường thành cổ nhà Nguyên, anh sẽ có cảm giác gì?” Noãn Noãn nói.

Tôi nhất thời không nói được gì, có câu thành ngữ “thế sự xoay vần”, dường như miễn cưỡng có thể đem hình dung được.

Xe cuối cùng cũng xuống khỏi đường Nhị Hoàn, rất nhanh đã đến khách sạn Đài Loan.

Mưa đã tạnh, tôi thấy bên biên kính xe bị gạt nước quét qua hơi lấp lánh, tò mò bèn kề sát vào nhìn cho kỹ.

Đó hình như là những hạt băng nhỏ đóng kết lại, tôi lấy ngón tay quét nhẹ một cái, đúng thật là băng vụn.

Lẽ nào vừa rồi từ trời rơi xuống, không chỉ có mưa?

“Lát nữa có khi còn có tuyết rơi” Noãn Noãn nói.

“Ý em là thứ rơi xuống khi mùa đông cực lạnh á?”

“Đúng thế.”

“Thứ rơi từ trên trời xuống, trắng trắng á?”

“Đúng thế.”

“Thứ có thể đắp người tuyết, nặn cầu tuyết á ?”

“Đúng thế.”

“Đúng là tuyết rồi!” Tôi gần như kêu lên thất thanh.

Noãn Noãn không buồn để ý đến tôi, đưa tay chỉ vào cửa khách sạn.

Tôi kéo va li, đeo ba lô, tới quầy lễ tân làm thủ tục check in.

Noãn Noãn muốn xem phòng tôi thế nào, nên cũng đi cùng tôi vào thang máy.

“Phòng này cũng được đấy” Noãn Noãn bước vào phòng, ngó nghiêng bốn phía xong, nói.

“Oa,” tôi nói, “chỗ này tuy là khách sạn ba sao, nhưng lại cung cấp hoa quả tận năm sao.”

“Hoa quả năm sao cái gì?” Noãn Noãn nghi hoặc hỏi.

“Quả khế này” tôi nói.

“Hả?”

Tôi cầm dao gọt hoa quả, cắt một lát khế, rồi chỉ hình (ngôi sao) trên bàn, nói: “Đây chẳng phải sao còn gì?”

Noãn Noãn vừa tức vừa buồn cười, nói: “Thế cũng chỉ mới một sao.”

Tôi xoẹt xoẹt thêm bốn nhát nữa, nói: “Thế này là năm sao rồi, nên đây là hoa quả năm sao.”

“Anh định tiếp tục nói nhảm,” Noãn Noãn nói, “hay là xuống lầu ăn cơm.”

Khách sạn Đài Loan ở ngay đầu phố Vương Phủ Tỉnh, đi thẳng phố Vương Phủ Tỉnh rồi rẽ phải là đến Thiên An Môn

Tôi và Noãn Noãn đi trên phố Vương Phủ Tỉnh, trời càng lúc càng lạnh, tôi không khỏi rụt rụt cổ.

“Mai em mang khăn quàng cho anh” Noãn Noãn nói.

Sau đó Noãn Noãn dẫn tôi vào tiệm thịt dê nhúng Đông Lai Thuận, nói: “Thời tiết này ăn dê nhúng là ngon nhất đó.” Trong tiệm đông nghịt người, chúng tôi ngồi xuống một góc quán, bàn bên cạnh là một cặp vợ chồng ngoại quốc.

Nước dùng lẩu rất thanh đạm, rau cải dập dềnh trên mặt nước.

Chúng tôi gọi thịt bò và thịt dê, cả hai cái bánh rán, hai bình nước ép táo chua, không gọi rau.

Noãn Noãn nói chúng tôi hãy chuyên tâm vào nhúng thịt ăn.

Thịt dê thái mỏng vừa mềm, nhúng vài cái là chín, bỏ luôn vào mồm nhai.

Gia vị được chế biến đặc biệt khiến mùi vị thịt thêm thơm ngọt, cứ thế ăn rồi lại ăn rồi lại nhúng, nhúng rồi lại ăn.

Nếu như thấy hơi ngây ngấy, uống một ngụm nước ép táo chua vào, là lại hừng hực sức chiến đấu ngay.

Noãn Noãn hỏi tôi, em có thay đổi gì không?

Tôi nói ngoài trở nên càng xinh đẹp ra, còn lại chẳng có gì đổi khác cả.

Noãn Noãn nói bệnh nói nhảm của tôi vẫn không sửa nổi, chỉ có dáng đi là hình như điềm tĩnh hơn.

“Đấy là vì lạnh,” tôi cười cười, “chân đông cứng lại.”

Liếc thấy cặ vợ chồng ngoại quốc bàn bên vụng về cầm đũa nhúng thụt dê, tôi và Noãn Noãn bụm miệng lén cười.

Anh chồng đột nhiên cầm chiếc bánh rán lên, hình như định thả luôn vào nồi lẩu.

“No!” Tôi và Noãn Noãn đồng thanh hét lên.

Anh ta giật bắn cả người, bàn tay phải đang cầm chiếc bánh khựng lại trên cao.

“Tiếng Anh của em ổn không?” tôi hỏi Noãn Noãn.

“Hì hì.” Noãn Noãn cười cười.

“Thế ý là không ổn rồi.” Tôi nói xong bèn vội vàng đứng dậy, đi sang bàn bên cạnh.

“Don’t think too much, just eat it,” tôi nói.

Anh Tây sững người, thu tay phải lại, rồi thử thăm dò đưa chiếc bánh lên miệng.

“Very good” tôi nói.

Anh ta cắn một miếng bánh, khẽ mỉm cười, dùng vốn tiếng Trung bập bõm nói: “Cảm ơn.”

“Nothing.” Tôi cũng mỉm cười, gật gật đầu.

Tôi trở lại chỗ ngồi, Noãn Noãn hỏi: “Anh vừa nói gì đấy?”

“Đừng nghĩ nhiều quá, cứ ăn là được rồi,” tôi trả lời.

“Câu ‘nothing’ cuối cùng cơ?”

“Anh ta đã nói cảm ơn, anh đương nhiên là nói không có gì rồi.”

“Anh gặp người nước ngoài cũng nói nhảm nữa?” Noãn Noãn trợn tròn mắt.

“Anh ta nghe hiểu đấy thôi,phải sao?” tôi nói.

Noãn Noãn nhìn tôi một hồi, không nhịn nổi phá lên cười.

Tôi cũng cười, không ngờ nói nhảm một hồi, Tây cũng hiểu.

Bữa này ăn vừa ấm vừa no, tôi và Noãn Noãn không giấu nổi nụ cười thỏa mãn.

Lúc thanh toán, Noãn Noãn định rút tiền, tôi vội vàng ngăn lại.

“Lương Lương,” Noãn Noãn nói, “đừng có tranh với em.”

“Em biết không,” tôi nói, “ở Đài Loan có một truyền thống, nếu như lần đầu ăn cơm với con gái mà để con gái trả tiền, thì người con trai sẽ xui xẻo suốt ba tháng.”

“Lại nói nhảm.”

“Em không tin cũng được, dù gì người xui xẻo cũng là anh mà.”

“Anh nói thật không?” Noãn Noãn ngừng tay lại.

“Anh trả xong rồi nói.”

Tôi trả tiền xong, mới đi được hai bước, Noãn Noãn lại hỏi: “Truyền thống đó của Đài Loan có phải thật không?”

Tôi cười cười, vừa đẩy cửa bước ra ngoài, lúc sau định trả lời câu hỏi đó, lại không nói nổi lời nào.

Vì thế giới tối thui bên ngoài đột nhiên đã chuyển sang sắc trắng.

Trên cây, trên mặt đất, đều một màu trắng, trong không gi­an lất phất những đốm trắng trắng.

“Có thể nào…” tôi lắp bắp, “lẽ nào...”

“Tuyết rơi rồi,” Noãn Noãn nói.

Chẳng trách người ta đều nói hoa tuyết hoa tuyết, tuyết thật giống những bông hoa li ti, lững thững rơi xuống.

Trong một tình huống hoàn toàn bất ngờ, tôi bắt gặp trận tuyết đầu tiên trong đời.

“Noãn Noãn,” tôi vẫn không dám tin, hỏi: “có thật là tuyết không?”

“Ừ.” Noãn Noãn gật đầu.

“Đây gọi là tuyết rơi hả?” Giọng tôi run run.

“Lương Lương,” Noãn Noãn bật cười, “tuyết rơi rồi.”

Tôi không thể khống chế bản thân được nữa, rảo bước xông ra giữa trời tuyết, xòe rộng hai lòng bàn tay hướng lên trên, ngửa cổ nhìn trời.

Cảm giác lạnh băng nhẹ nhàng rơi trên mặt, trên tay nói với tôi rằng, đây đúng là tuyết rồi.

“Oa!” tôi kêu lớn một tiếng, rồi cười sằng sặc như bị điên.

“Noãn Noãn,” tôi nói, “tuyết rơi rồi này!”

“Cẩn thận cảm lạnh đấy!” Noãn Noãn nói.

“Hôm nay được thấy Noãn Noãn, lại lần đầu tiên thấy tuyết, như tự dưng được thông báo đạt giải Nobel, rồi bước xống nhà mua vé số, kết quả lại trúng độc đắc. Noãn Noãn, còn người anh ưa hư danh, không ham tiền bạc, vì vậy Noãn Noãn, em là giải Nobel.” Tôi nói năng hơi lộn xộn, nhưng vẫn ra sức nói.

“Lương Lương,” Noãn Noãn chỉ mỉm cười, “ đấy.”

Một năm rưỡi nay, tôi ôm hy vọng rồi sẽ có một ngày gặp lại Noãn Noãn mà chăm chỉ sống.

Tôi chăm chỉ giữ gìn sự thuần khiết của mình, cũng chăm chỉ nhớ tới Noãn Noãn, tôi thực sự đã rất chăm chỉ.

Ông trời rủ lòng thương, hôm nay cuối cùng cũng đã để tôi được gặp Noãn Noãn.

Trong cảnh khắp trời tuyết bay này, tôi chẳng còn cách nào duy trì kiểu gượng gạo của võ sĩ Tà Dương được nữa.

Khóe mắt tôi đột nhiên ươn ướt, không rõ là tuyết hay nước mắt.


HẾT CHƯƠNG 12
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
Đăng lúc 22-6-2013 22:15:35 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 11



Công ty có một nhà máy ở Tô Châu, lần này tôi cùng vài kỹ sư nữa đến đó làm việc.

Chủ yếu là về công tác chuyển giao kỹ thuật.

Tôi xuống máy bay ở Thượng Hải, phía Tô Châu cử đến hai chiếc xe, đón chúng tôi về Tô Châu.

Bên nhà máy có khu tập thể, trong ba tháng tới chúng tôi sẽ ở đây.

Đám kỹ sư Đài Loan chúng tôi tuy được gọi đùa là cán bộ Đài Loan, nhưng mọi người đều gọi chúng tôi là “thầy”.

Tôi biết trong cách nói ở Đại lục, gọi người khác là thầy biểu hiện một sự kính trọng.

Nhưng dù gì cả đời này cũng chưa từng được ai gọi là thầy, nên nghe vậy vẫn thấy không tự nhiên.

Dỡ hành lý qua loa, thả lỏng chân tay xong, tôi lập tức cầm lấy điện thoại di động.

Tôi đã ở Tô Châu rồi, lý do này đủ để tôi gọi điện thoại cho Noãn Noãn.

“Xin hỏi cô có quen người đẹp số 1 Bắc Kinh, Tần Noãn Noãn không?” điện thoại vừa thông, tôi nói.

“Dạ?” Đầu dây bên kia dường như giật thót mình. “Tôi chính là Tần Noãn Noãn đây. Xin hỏi ai đấy ạ?”

Tôi nhận ra rồi, là tiếng Noãn Noãn, không sai đi đâu được.

“Giọng cô hay như vậy, lại là người đẹp số 1 Bắc Kinh, trên đời này còn vương pháp nữa không đây?” tôi nói.

“Lương Lương?” Tiếng Noãn Noãn có chút ngập ngừng.

“Xin gọi tôi là thầy Lương Lương” tôi nói.

“Lương Lương!” Noãn Noãn rất phấn khích. “Đúng là anh rồi!”

Tôi cũng rất vui.

Thật chưa từng nghĩ tới chỉ đơn giản ấn vài phím số mà có thể có một niềm vui lớn ngần này.

Noãn Noãn nói tối qua nhận được e-mail của tôi, vốn định gọi điện cho tôi, không ngờ tôi đã gọi trước rồi.

Tôi nói cho Noãn Noãn lý do đến Tô Châu và thời gian lưu lại đây, Noãn Noãn nói Tô Châu rất đẹp, đừng quên đi dạo thăm thú.

“Em đến Tô Châu rồi à?” tôi hỏi.

“Em nghe người ta nói thế.”

“Lại là nghe nói.”

“Tai em tốt mà.” Noãn Noãn bật cười khanh khách.

Xa nhau đã hơn một năm. Chúng tôi đều có rất nhiều điều muốn nói, nhưng nhất thời chẳng thể sắp xếp được thứ tự.

Đành nói mấy chuyện vô vị như ngồi máy bay mất bao lâu, thức ăn trên máy bay có những gì, tiếp viên hàng không chắc đã lấy chồng sinh rồi, hơn nữa con đầu lòng đã học tới cấp III rồi.

Chúng tôi dường như chỉ thuần túy tận hưởng niềm vui được nghe giọng nói của nhau, tận hưởng điều thuần túy ấy, rồi cảm thấy cả hai đều vẫn đang sống thật là một việc đáng chúc mừng.

Không hiểu vì sao, trong lúc nói chuyện với Noãn Noãn, trong đầu tôi lại hiện lên hình ảnh vách hồi âm ở Thiên Đàn.

Có lẽ là vì giờ chúng tôi đang nói chuyện qua di động, nói vào di động, nghe câu trả lời cũng từ di động, so với lúc đối diện với bức vách nói, rồi từ bức vách nghe thấy câu trả lời, cảm giác rất giống nhau.

Cũng nhớ đến dũng khí nói thầm với Noãn Noãn những âm thanh vẫn luôn luẩn quẩn trong lòng - Anh thích em.

Tuy rằng tôi biết Noãn Noãn nhất định không nghe thấy.

“Noãn Noãn” tôi gọi to.

“Hả?”

“Noãn Noãn” tôi thấp giọng xuống.

“Nói đi.”

“Đây là Noãn Noãn ở giọng cao và giọng trầm.”

“Anh nói cái gì thế.”

“He he, Noãn Noãn.”

“Rốt cuộc anh định nói gì?”

“Đây là Noãn Noãn thêm he he.”

“Bại não” Noãn Noãn nói.

Noãn Noãn không hề biết, chỉ cần có thể đơn thuần mở miệng gọi Noãn Noãn, đó đã là một điều hạnh phúc.

Cuộc gọi kéo dài hơn nửa tiếng mới kết thúc.

Ngắt điện thoại rồi, tôi tự nhiên thấy khóe miệng mỏi nhừ.

Có lẽ lúc nghe Noãn Noãn nói, tôi bất giác cứ giữ nguyên nụ cười trên miệng.

Tôi mở va li, sắp xếp qua loa đồ dùng hàng ngày, xem qua một số tài liệu bên nhà máy chuẩn bị.

Dù gì tôi cũng không đến đây chơi, phải làm cho tốt việc nên làm.

Tính chất công việc ở Tô Châu rất đơn giản, thậm chí có thể nói nhẹ nhàng hơn công việc ở Đài Loan.

Ngoài một số rắc rối nhỏ do việc lạ nước lạ cái, chưa quen sinh hoạt, tôi thích ứng rất nhanh.

Chỉ có sau giờ tan làm, thời gian không biết dùng vào đâu mới là vấn đề lớn nhất.

Các đồng nghiệp thỉnh thoảng rủ đi hát karaoke, trong đầu hát phần lớn là các bài nhạc Đài Loan thịnh hành, tôi rất quen thuộc.

Nhưng tôi hát lại không hay, không nỡ lòng nào đem niềm vui của mình xây trên nỗi thống khổ của người khác.

Vì vậy sau khi tan làm, tôi thường một mình ru rú trong nhà tập thể.

Đến ngày nghỉ, tôi bèn đi thăm thú Tô Châu.

Từng có người nói, Tô Châu là thành phố giống Đài Bắc nhất.

Đài Bắc tôi không rõ lắm, nên không biết Tô Châu trước mặt liệu có thật giống với Đài Bắc hay không?

Tôi nghĩ có lẽ là vì người Đài Loan ở Tô Châu đông, tình cảm nhớ quê hương nồng nàn mãnh liệt, nên mới có cảm giác này.

Nhưng cũng có một điểm tương đồng, xe máy ở Tô Châu nhiều và cũng chạy bạt mạng như ở Đài Loan.

Tuy nhiên nói một cách nghiêm túc, xe máy ở Tô Châu quá nửa là xe điện.

Nhớ năm ngoái lúc tôi ở Bắc Kinh, trên đường đến một chiếc xe máy cũng không có.

Đi qua đoạn đường phồn hoa tấp nập, bên tai vang lên bài hát “Nghe biển”, nhưng người hát lại không phải Trương Huệ Muội.

“Nghe kìa… tiếng biển khóc…”

Người khóc chắc phải là Trương Huệ Muội mất.

Nhìn tổng thể mà nói, đây đúng là một thành phố khiến người ta liên tưởng đến Đài Loan.

Tôi hoàn toàn không vì vậy mà có cảm giác nhớ nhà.

Nhưng có lần gặp một người Phúc Châu trong nhà máy, anh ta dùng tiếng Phúc Kiến nói chuyện với tôi.

Ngoài âm điệu có chút khác biệt ra, thì căn bản đó chính là tiếng Đài Loan, tôi giật thót mình.

Trên thực tế có lẽ chuyện chẳng có gì mà tôi cứ kinh ngạc quá lên, tiếng Đài Loan chính là tiếng Mân Nam, đương nhiên cũng giống với tiếng Phúc Kiến.

Thế là mỗi khi nói tiếng Phúc Kiến với anh bạn người Phúc Châu đó, tôi mới bắt đầu nhớ đến mọi chuyện ở Đài Loan.

Tuy nhiên phần lớn thời gian, vẫn là tôi nhớ đến Noãn Noãn.

Lần đầu tiên tôi viết e-mail gửi Noãn Noãn, nhìn bàn phím chẳng hề có dấu chú âm, nhiệt huyết trong tôi nguội đi một nửa.

Ở Đài Loan, khi đánh tiếng Trung thường dựa vào dấu chú âm, nhưng chữ giản thể lại dựa vào phiên âm tiếng Hán.

Ở Đài Loan luôn tuân theo phiên âm thông dụng, còn phiên âm tiếng Hán tôi hoàn toàn không hiểu.

Mới đánh được hai chữ Noãn Noãn (nghiêm khắc mà nói thì là một chữ), tôi đã vã mồ hôi đầu.

Đành phải cầu cứu các đồng nghiệp Tô Châu, nhờ họ dạy tôi gõ từng chữ, từng chữ.

Một bức e-mail 100 chữ, họ đã giúp tôi 88 chữ.

Vốn nghĩ dùng tiếng Anh viết luôn cho rồi, tuy trình độ tiếng Anh của tôi miễn cưỡng có thể biểu đạt sự việc, nhưng nếu để biểu lộ tâm tình thậm chí là tình cảm, sắc thái chắc hẳn sẽ không đúng cho lắm.

Ví dụ như câu này “Lời hỏi han ấm áp của Noãn Noãn đã sưởi ấm trái tim lạnh lẽo của Lương Lương”, dịch sang tiếng Anh e rằng sẽ thiếu mất vài nghĩa cảnh. Dù là câu này gần như chẳng có nghĩa cảnh gì đáng nói.

Vì vậy mỗi khi muốn viết e-mail cho Noãn Noãn, tôi luôn phải thỉnh giáo mấy đồng nghiệp Tô Châu về phiên âm tiếng Hán của từng chữ.

Cũng may hỏi nhiều lần rồi dần dần cũng rút ra được vài kinh nghiệm, tự mình thử phiên âm, thường cũng phiên được ra, chỉ cần thử nhiều lần thôi.

Tôi cũng hay muốn gọi điện cho Noãn Noãn, nhưng vẫn cho rằng phải tìm được lý do gì đặc biệt mới nên gọi.

Noãn Noãn đang làm việc, hoặc đang rất bận, tôi không muốn tấm lòng của mình lại làm phiền tới em.

Thế nhưng hôm nay, khi đã có một lý do đủ đặc biệt để gọi điện cho Noãn Noãn, tôi chợt nhớ ra điện thoại của mình vẫn dùng sim Đài Loan, phí điện thoại gọi đến máy Noãn Noãn rất đắt.

Nếu như lại giống lần trước nói một mạch nửa tiếng đồng hồ, mỗi ngày gọi một cuộc thì tôi phá sản mất.

Tôi ra phố mua một thẻ điện thoại, gọi luôn bằng điện thoại công cộng bên đường, phí điện thoại như vậy cũng tiết kiệm khá nhiều.

“Sinh nhật vui vẻ!” Noãn Noãn vừa nhận điện thoại, tôi đã nói luôn.

“Lương Lương?” Noãn Noãn nói. “Hôm nay có phải sinh nhật em đâu.”

“Không phải ư?” tôi nói.

“Đương nhiên không phải rồi. Sao anh lại nghĩ hôm nay là sinh nhật em?”

“Anh cũng không biết sao nữa. Chỉ nghĩ, nếu em đón sinh nhật mà không có ai chúc mừng thì sẽ rất đáng thương.”

“Lương Lương.”

“Hả?”

“Chúc sinh nhật vui vẻ” Noãn Noãn nói.

“Sao em biết hôm nay là sinh nhật anh?” Tôi rất đỗi kinh ngạc.

“Chút ý đó của anh, em còn không đoán ra sao?” Noãn Noãn cười rất vui vẻ.

Tôi nói với Noãn Noãn, đã là sinh nhật tôi, vậy hôm nay có thể nói hết thẻ điện thoại được không?

Noãn Noãn bật cười nói được.

Từ điện thoại phát ra một tiếng tít chói tai chắc chỉ còn mấy giây cuối, Noãn Noãn nói lớn: “Lương Lương! Sinh nhật vui vẻ!” Tôi còn chưa kịp đáp lại, điện thoại đã tự động ngắt mất rồi.

Lúc đó là mùa thu, ngõ phố Tô Châu về đêm hơi lạnh lẽo.

Một câu sinh nhật vui vẻ của Noãn Noãn đã khiến tôi cảm nhận được sự ấm áp từ tận đáy lòng.

“Lời hỏi han ấm áp của Noãn Noãn đã sưởi ấm trái tim lạnh lẽo của Lương Lương”, câu này nếu thực sự có nghĩa cảnh, thì chính là lúc này rồi.

Tôi cất tấm thẻ điện thoại đã dùng hết tiền, coi như quà sinh nhật Noãn Noãn tặng tôi.

Thoắt cái đã tới Tô Châu được ba tháng, chỉ khoảng hai tuần nữa là phải rời khỏi nơi đây.

E-mail của Noãn Noãn lúc nào cũng nhắc “Lâm viên Giang Nam đệ nhất thiên hạ, lâm viên Tô Châu đệ nhất Giang Nam”, giục tôi nhất định phải đi thăm, không thăm sẽ hối hận, hối hận rồi vẫn cứ phải đi.

Chọn một ngày nghỉ, cùng mấy anh bạn kỹ sư Đài Loan khác tới thăm khu thành cổ Tô Châu.

Thành cổ Tô Châu đã có nghìn năm lịch sử, thành ban đầu có cả đường thủy lẫn đường bộ, sông phố tiếp giáp với nhau, bây giờ vẫn vậy.

Đáng quý nhất là khu thành cổ đến nay vẫn tọa lạc ở nguyên chỗ cũ.

Vào trong thành cổ, cứ năm bước thì gặp một cố tích nhỏ, mười bước gặp một cố tích lớn, thỉnh thoảng còn có thể thấy những cố cư của các danh nhân trong lịch sử.

Giữa nơi đây và thành phố Tô Châu mới được xây dựng mà tôi đang ở có một sự khác biệt rất lớn, đây cũng là điểm làm nên đặc điểm tân cổ giao duyên của Tô Châu.

Nếu như bước đi trong thành cổ Tô Châu mà vẫn còn khiến bạn liên tưởng đến Đài Bắc, thì hẳn bạn nên viết truyện viễn tưởng đi thôi.

Chuyết Chính Viên nằm ở phía đông bắc khu thành cổ, là khu lâm viên nổi tiếng nhất trong tứ đại lâm viên của thành Tô Châu.

Trong vườn lấy nước làm chủ thể, dương liễu bên hồ phất phơ trong gió, các dãy hành lang lên xuống, đình các được xây gần nước, cầu đá như một chiếc cầu vồng rực rỡ bắc ngang bầu trời quang sau cơn mưa.

Cảnh sắc khu vườn tự nhiên, vẫn giữ được phong cách sôi nổi mộc mạc của lâm viên đời Minh, đậm chất sông nước Giang Nam.

Bắt đầu từ lúc bước vào cổ thành, cảnh phố xá, cảnh lâm viên đều khiến tôi có một cảm giác quen thuộc.

Về sau mới bàng hoàng nhận ra, đây chẳng phải phố Tô Châu trong Di Hòa Viên hay sao?

Phố Tô Châu vốn được dựng phỏng theo cảnh phố phường Tô Châu, tuy rằng quy mô và quang cảnh đều không bằng lâm viên Tô Châu, nhưng vẫn mang chút nét duyên dáng của lâm viên nơi đây.

Tôi nhớ đến cảnh cùng Noãn Noãn dạo bước ven phố Tô Châu; cũng nhớ đến lầu hai trà quán đã ngồi cùng Noãn Noãn, nhìn ra cây cầu nhỏ cong cong trên mặt nước, với nước sông Tô Châu đang chậm rãi chảy bên dưới; cuối cùng là nhớ đến ông lão coi chữ trên phố Tô Châu.

Lúc ở Đài Loan, thường là những tấm ảnh và những hình ảnh còn lưu lại trong óc gợi nên nỗi nhớ về Noãn Noãn; giờ đây khi cảnh vật cụ thể trước mắt, chẳng phải 2D mà hẳn 3D, tôi thậm chí còn cảm thấy như Noãn Noãn đang ở ngay cạnh mình.

Tôi nhận ra con tim nhung nhớ Noãn Noãn của mình còn nóng bỏng hơn cả tôi tưởng tượng.

Tôi chợt có ý nghĩ đến Bắc Kinh tìm Noãn Noãn.

Nhưng vé máy bay về Đài Loan đã đặt rồi, sau khi trở về vẫn cũng còn rất nhiều công việc đang đợi tôi.

Nếu như từ Tô Châu không bay xuống phía Nam về Đài Loan, mà bay lên phía Bắc tới Bắc Kinh, liệu có quá ngông không?

Hơn nữa chẳng may đúng lúc Noãn Noãn đang bận tối mắt tối mũi, hà tất lại làm khó thêm cho em?

Tôi cứ trăn trở mãi, vẫn không đưa ra được quyết định.

Cuối cùng cũng đến đêm trước ngày rời Tô Châu, phía nhà máy muốn bù đắp cho những khó khăn vất vả của đám kỹ sư Đài Loan chúng tôi, đã phái một xe riêng, đưa chúng tôi đến Tây Hồ Hàng Châu thăm thú, ngay hôm sau sẽ lên máy bay luôn.

Lần đầu nhìn thấy Tây Hồ, tôi quá đỗi sững sờ, lập tức mê mẩn trước vẻ đẹp của nàng.

Nhưng rồi chẳng bao lâu, tôi liền liên tưởng đến hồ Vị Danh trong Bắc Đại, hồ Côn Minh trong Di Hòa Viên, thậm chí là cả Thập Sát Hải.

Tôi biết rõ rằng vẻ đẹp của những hồ này hoàn toàn khác với vẻ đẹp của Tây Hồ, nhưng tôi vẫn bất giác nhớ đến lúc cùng Noãn Noãn bên hồ Vị Danh, hồ Côn Minh, Thập Sát Hải.

Lên xe xích lô, định đi dạo một vòng hồ.

Bác phu xe mới đạp mấy vòng, tôi lại nhớ đến chuyện cùng Noãn Noãn ngồi xích lô đi dạo ngõ cổ ở Bắc Kinh.

Phong cảnh Tây Hồ tuy kiều diễm là vậy, nhưng vẫn chẳng khiến tôi phân tâm.

Nói đúng ra, tâm tư tôi đã hết lên Noãn Noãn, chẳng thể nào tịnh tâm lại thưởng thức cảnh đẹp này.

Có thể nói là: Cảnh đẹp trước mắt nhìn không thấu, Noãn Noãn trước sau vẫn trong lòng.

Ngay đến anh bạn kỹ sư Đài Loan ngồi cạnh tôi đây, tôi cũng suýt chút nữa thì tưởng anh ta là Noãn Noãn.

Rời Tây Hồ về lại phòng ở, sắp xếp ổn thỏa hành lý, đến khi lên giường thì tôi lại mất ngủ.

Hồi ở Đài Loan, dù tôi cũng rất nhớ Noãn Noãn nhưng chưa từng vì thế mà mất ngủ; không ngờ đến khi rời khỏi Bắc Kinh đã sắp một năm rưỡi, tôi lại ở Tô Châu mất ngủ vì Noãn Noãn.

Nhung nhớ có tuổi, bởi nó biết lớn;

Ký ức trường sinh, bởi nó chẳng hề già.

Cũng như nỗi nhớ nhung tôi dành cho Noãn Noãn vẫn tăng thêm tăng thêm theo từng ngày, còn ký ức về khoảng thời gian bên Noãn Noãn, dù có bao lâu chăng nữa, vẫn cứ tươi mới như ngày hôm qua.

Tôi phải tới Bắc Kinh tìm Noãn Noãn.


HẾT CHƯƠNG 11
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

21#
Đăng lúc 21-6-2013 20:50:06 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 10


Những ngày đầu đi làm rất điều độ, cũng rất bình thường.

Những ngày làm nghiên cứu sinh trước kia cũng có thể nói là điều độ, nhưng lại không được bình thường cho lắm.

Nói điều độ là bởi ngày nào trời sáng cũng chúc ngủ ngon, buổi trưa đi ăn sáng; nhưng như vậy chẳng thể gọi là bình thường cho được.

Hiện giờ tôi có hai người bạn cùng nhà  - Tiểu Tào và Tiểu Hà, đều là con trai cả.

Mỗi người một phòng ngủ, chung phòng khách, phòng bếp và phòng tắm.

Tính chất công việc của bọn họ cũng giống tôi, chúng tôi đều làm ở Khu Công nghệ cao Tân Trúc.

Người như bọn tôi thân quen rất nhanh, chỉ cần cùng làm ván điện tử là đã quen nhau ngay rồi.

Ba chúng tôi có chuyên môn giống nhau, nói chuyện hợp gu, ngay đến điệu cười cũng giống như khỉ bị điện giật.

Hôm mới dọn đến, tôi lắp lại máy tính trước tiên, nối dây mạng, gửi e-mail cho Noãn Noãn.

Sau đó mới bắt đầu dỡ hành lý, sắp xếp phòng ốc.

Chẳng có gì là không thể thích ứng, một thân một mình vật vờ nơi nào, tự khắc có thể sinh gốc bám rễ nơi đó.

Hàng ngày bảy rưỡi ra khỏi cửa, 8 giờ đến công ty, theo nguyên tắc năm rưỡi là tan làm, nhưng tôi đều ở lại đến 8 giờ tối.

Dù gì về nhà cũng đều ngồi đóng đinh trước màn hình máy tính, thà rằng ngồi ở cơ quan, trước cái máy tính tốc độ cao còn hơn.

Thời hạn th việc là ba tháng, nhưng chỉ sau hai tuần là tôi đã quen với công việc.

Quan hệ đồng nghiệp cũng rất hòa hợp, không hề xảy ra mấy tình tiết âm mưu đấu đá nơi văn phòng hay thấy trong các phim truyền hình.

Kỹ sư không hành tẩu giang hồ bằng cái miệng, trình độ của bạn thế nào, trong lòng mọi người đều biết rõ; hơn nữa thường những kỹ sư đặc biệt lợi hại, đều là những người không giỏi ăn nói hoặc xã giao.

Thỉnh thoảng cũng có vài người miệng khá loe, nhưng tỉ lệ thấp hơn cả ở trong trường.

Nếu như bạn đang học đại học, hẳn bạn có thể thấu hiểu sâu sắc trong trường đại học thật sự có không ít giáo viên miệng loe.

Trong công ty đồng nghiệp hầu hết là nam giới, khó khăn lắm mới thấy vài nữ đồng nghiệp, thông thường đều phụ trách mấy việc kế toán, hành chính.

Nhìn về ngoại hình của mấy cô thì…

Ừm, dùng lời lẽ uyển chuyển thì là, không thuộc vào nhóm người có thể khiến bạn bận tâm.

Thậm chí còn có thể ép bạn càng chuyên tâm vào công việc.

Công ty của Tiểu Tào và Tiểu Hà cũng ở trong tình trạng tương tự, Tiểu Tào thậm chí còn nói công ty cậu ta chọn lọc rất khắt khe.

“Nếu như lấy vào một cô hơi xinh đẹp một tẹo, trong công ty bao nhiêu kỹ sư nam như thế làm sao mà chuyên tâm nổi?” Tiểu Tào nói. “Vì vậy lúc phỏng vấn, công ty sẽ chọn lọc rất khắt khe, chuyên tuyển khủng long.”

Tôi ngẫm nghĩ cũng thấy có lý.

Đối với những người như chúng tôi, máy tính chính là người yêu; còn mạng Internet chính là linh hồn của người yêu.

Làm chúng tôi phát rồ rất dễ, cắt dây mạng là đủ rồi.

Chúng tôi ngày nào cũng mơ tưởng đến hình dáng nửa kia của mình trong tương lai, nhưng lại chẳng biết sẽ gặp nàng ở đâu?

Chỉ biết rằng nhất định sẽ không phải trong công ty.

Chúng tôi không thể và cũng không biết xởi lởi, vì không giỏi ăn nói; chúng tôi vụng về biểu đạt, vì biểu đạt phải dùng đến lời lẽ chứ không phải ngôn ngữ lập trình.

Chúng tôi rất ngây thơ, vì thế giới 0 với 1 của máy tính trắng đen rõ ràng, không như hiện thực đủ sắc màu rối rắm

Chúng tôi thường mắc lừa trên mạng, không phải vì ngu, cũng không phải vì quá cả tin; mà vì con tim nóng bỏng mang khát vọng giới tính đến mức cam tâm tình nguyện chịu mạo hiểm bị lừa, dù cho mức độ mạo hiểm có cao đến 99%.

Nhưng lừa gạt tình cảm của chúng tôi cũng như lừa gạt cô gái mồ côi đêm hôm đứng nơi ngõ nhỏ bán hoa, đều là loại mất nhân tính.

Song tôi và mấy đồng nghiệp có chút khác nhau.

Đó chính là tôi đã từng gặp một người con gái tốt đẹp, em tên là Noãn Noãn, em khiến cuộc đời tôi trở lên rực rỡ.

Tôi không cần mơ tưởng về nửa kia trong tương lai, bởi tôi đã biết em là ai.

Tuy tôi không biết liệu chúng tôi có ở bên nhau được hay không, hơn nữa e rằng tỷ lệ không thể cao, nhưng ít nhất tôi cũng không cần tưởng tượng.

Nhìn từ góc độ này, trái tim tôi đã no đủ rồi, khó mà nhét thêm được bất kỳ hình bóng kiều diễm của người con gái nào khác.

Dù cho một mỹ nữ năm sao ỏn ẻn thướt tha, khóe mắt phát điện, trên mặt nở một nụ cười mê hồn nói với tôi: “Anh đẹp trai, giúp em sửa máy tính với. Có được không nào, có được không nào…”

Tôi cũng có thể vô cùng bình tĩnh, giữ giọng nói -10oC mà rằng: “Không rảnh.”

Vì vậy tuy không thể thấy Noãn Noãn, không thể nghe tiếng em, nhưng Noãn Noãn vẫn ở trong trái tim tôi.

Thỉnh thoảng tôi lại gửi e-mail cho Noãn Noãn, nói mấy chuyện vụn vặt thường ngày.

Nhưng đối với kiểu người bất kỳ lúc nào ở đâu, đi đường cũng phải đi bên phải như tôi, cái gọi là chuyện vụn vặt vừa chẳng vặt lại cũng chẳng nhiều.

Có lần thực sự rất muốn gửi­Noãn Noãn, nhưng lại chẳng tìm đâu ra chuyện vặt, đành phải viết: Hôm nay là ngày thứ bảy liên tiếp mặt trời mọc rồi.

Noãn Noãn gửi lại: Anh vất vả rồi. Cứ kể luôn chuyện bạn cùng phòng của anh đi.

Bạn cùng phòng tôi cũng chẳng có gì hay mà nói, bọn họ đều tẻ nhạt giống hệt tôi.

Mà vài chuyện khá đặc biệt hoặc buồn cười, tôi lại không tiện kể với Noãn Noãn.

Ví dụ như, Tiểu Tào một ngày không đánh điện tử là không chịu nổi, có hôm đột nhiên đi đọc kiệt tác văn học.

Mà lại còn là Hồng lâu mộng.

Tôi và Tiểu Hà kinh động đến thất sắc, vì đây là triệu chứng điển hình của bệnh thất tình.

“Hôm nay tớ lượn vào một trang web, trong đó viết về thông tin của các nữ diễn viên phim cấp 3 của Nhật. Thật không ngờ trong mục sở thích của bọn họ, phần lớn đều điền là đọc sách” Tiểu Tào nói. “Đọc sách ấy! Nữ diễn viên phim cấp 3 ấy! Một người đàn ông máu me như tớ làm sao có thể không bị kích thích cơ chứ?”

Tôi và Tiểu Hà quay người đi luôn, không thèm quan tâm đến cậu ta nữa.

Còn một lần khác, Tiểu Hà từ trong phòng tắm bước ra, đầu tóc chải rất gọn gàng.

Cậu ta bước từng bước thận trọng chậm rãi tới bên ngăn kéo bàn sách, nhẹ nhàng kéo ngăn kéo, lấy ra một đĩa CD.

Khẽ khàng gật đầu chào cái đĩa, rồi dùng bàn tay run run đút vào đầu đĩa, vẻ mặt rất trang nghiêm.

“Cậu làm cái gì thế?” tôi và Tiểu Tào đồng thanh hỏi

“Nữ thần của ta,” cậu ta nói giọng thành kính,“Maria Takagi.”

“Với tư cách là bạn cùng phòng với cậu, tớ có nghĩa vụ chỉnh đốn hành vi sai lệch này của cậu,” Tiểu Tào cao giọng nói.

“Hử?” Tiểu Hà quay đầu lại.

“Người được gọi là nữ thần…” Tiểu Tào quỳ một chân xuống đất, hai tay bắt chéo hình chữ thập, ngẩng mặt nhìn trời, nói: “Chỉ có Azumi Kawashima* mà thôi.”

* Hai nữ diễn viên phim cấp 3 nổi tiếng của Nhật.

Sau đó hai người bọn họ cãi cọ ầm ĩ.

Bạn cùng phòng với tôi là những người như thế đấy, tôi sao có thể hé răng với Noãn Noãn được?

Vì vậy tôi vẫn chỉ đành cố gắng tìm ra những chuyện vụn vặt hàng ngày để kể với Noãn Noãn.

Hơn nữa, những chuyện vụn vặt này tốt nhất là không dính dáng đến Tiểu Tào và Tiểu Hà.

Lượng công việc của tôi càng nhiều, thời gian về nhà cũng dần muộn đi.

Lúc này mới bắt đầu thử nhắc đến một chút tâm tình với Noãn Noãn.

Noãn Noãn.

Tối qua 10 giờ bị call đến công ty sửa chương trình, 2 giờ sáng mới được về nhà.

Bỗng nhiên cảm thấy cảnh phố đêm khuya thật xa lạ.

Có chút hoang mang, cả mệ.

Lương Lương ở Đài Loan.


Không ngờ mười phút sau đã nhận được thư trả lời của Noãn Noãn.

Lương Lương.

Người phiêu bạt trong giang hồ, sao tránh được gươm đao.

Áp lực công việc lớn, khó tránh có tâm trạng.

Ánh mặt trời sáng nay, sẽ chiếu sáng màn đêm của hôm qua.

Noãn Noãn ở Tuy Hóa.


Tuy Hóa?

Tôi lập tức viết lại hỏi Noãn Noãn, Tuy Hóa là chỗ nào?

Noãn Noãn cũng lập tức viết lại trả lời, Tuy Hóa là quê em.

Tối qua em về quê, khai giảng mới trở lại Bắc Kinh.

Trong đầu tôi bắt đầu mơ tưởng về quang cảnh Tuy Hóa.

Nhớ lại lúc bên bờ Thập Sát Hải, Noãn Noãn hỏi tôi nếu em về quê làm việc, tôi có đến tìm em không?

Lúc đó cũng không biết xúc động thế nào, mà tôi lại nói là có.

Tuy Hóa nghe có vẻ là một thành phố lớn, nếu như thật phải đi Hắc Long Giang tìm Noãn Noãn, chắc không khó lắm.

Tôi cũng trao đổi thư từ vài lần với Từ Trì và Cao Lượng, bọn họ vừa tốt nghiệp ra trường, đã tìm ngay được việc

Cao Lượng chưa quên lời hẹn dẫn tôi đi leo Trường Thành - Tư Mã Đài; Từ Trì lại không ngừng dặn dò: Sau này tới Bắc Kinh, nhất định phải báo cho cậu ta.

Tôi tin mấy lời này không phải khách sáo.

Cậu em khóa dưới vẫn còn đi học, thỉnh thoảng chúng tôi cũng gọi điện nói chuyện.

“Anh này, em nói với anh một chuyện.” Có lần cậu ta gọi đến cho tôi.

“Chuyện gì?”

“Hôm nay em đã gọi điện cho Vương Khắc đấy.” Giọng cậu ta rất phấn khích.

“Ờ. Cô ấy vẫn khỏe chứ?”

“Không khỏe.”

“Vương Khắc làm sao?”

“Cô ấy nhận được điện thoại của em, vui quá còn bật khóc nữa kìa.”

“…”

“Anh, anh có biết thế nào là vui đến phát khóc không?”

“Biết.”

“Vui - đến - phát - khóc đấy!”

“Cậu gọi điện để huênh hoang đấy hả?”

“Không phải huênh hoang với anh, mà là khích anh thôi. Em biết anh nhất định không dám gọi điện cho Noãn Noãn.”

“Mặc xác tôi.”

“Vui - đến - phát - khóc nhá!”

“Vui cái đầu cậu ấy!”

Tôi dập máy, không thèm đếm xỉa đến cậu ta nữa.

Thời gian thử việc đã qua, lương cũng được tăng lên một ít, tôi bắt đầu có cảm giác ổn định.

Có lúc thậm chí còn có cảm giác sắp chết già nơi này, không thoát khỏi mồ hôi lạnh.

Noãn Noãn.

Công việc của anh ổn định rồi.

Nhưng rất sợ vì ổn định mà mất đi sức sống, lâu dần rồi trở thành bức tượng.

Hơn nữa còn là một bức tượng mặt mũi lạnh tanh.

Lương Lương ở Đài Loan.

Lương Lương.

Chưa thấy ai chê ổn định bao giờ.

Hay là anh muốn phiêu bạt?

Giang hồ cầu yên, phiêu phiêu bạt bạt dễ gặp gươm đao.

Hơn nữa trước khi còn chưa đến Bắc Kinh tìm em, anh không biến thành tượng được đâu.
Noãn Noãn ở Bắc Kinh.


Thời tiết đã bước sang mùa thu, tôi và Tiểu Tào, Tiểu Hà lái xe đến Cốc Quan tắm suối nước nóng.

Trên đường đi qua Thiên Lãnh, chúng tôi dừng xe lại mua kem que ăn.

Lúc đó tôi đột nhiên nhớ lại chuyện cùng Noãn Noãn đứng ăn kem ngoài Thần Vũ Môn ở Tử Cấm Thành.

Rồi nhớ đến chuyện Noãn Noãn hỏi tôi bao giờ đưa em tới Noãn Noãn, tôi trả lời có lẽ vào mùa đông.

Cuối cùng, từ có lẽ vào mùa đông lại nhớ đến đêm trước hôm rời Bắc Kinh, tôi và Noãn Noãn ngồi nói chuyện bên ngoài giảng đường.

“Sớm mai trên đường dài, tiếc tấm lòng lúc này.”

Tiếng Noãn Noãn dường như vẫn còn văng vẳng bên tai.

Hồi ức vẫn rõ ràng là vậy, không hề phai nhạt bởi thời gian.

Tuy chỉ ở Bắc Kinh có 8 ngày, nhưng mỗi ngày đều khắc lại một dấu ấn thật sâu trên cột mốc thời gian.

Bất kỳ khoảnh khắc nào trong cuộc đời ngoảnh đầu nhìn lại, tôi đều có thể thấy rõ mồn một những vết khắc ấy.

Noãn Noãn, anh rất nhớ em.

Em biết không? Kem que ở Thiên Lãnh thực sự rất ngon.

Mùa đông đến lặng lẽ, cảm nhận đầu tiên không phải sự giảm nhiệt, mà là những cơn gió ngày càng mạnh.

Gió lớn ở Tân Trúc nổi tiếng như vậy cũng không phải không có lý.

Tan làm về nhà, còn bị gió thổi cho chao đảo cả người

Mở hộp thư, phát hiện có một bức thư viết tay, là gửi cho tôi.

Chuyện này quả thực quá hiếm gặp, có thể đi mua tờ loto rồi.

Từ khi mạng Internet và điện thoại di động trở lên thịnh hành, mấy trăm năm nay rồi tôi chưa nhận được bức thư viết tay nào cả.

Lúc đợi thang máy, ngó qua địa chỉ ngoài phong bì - Bắc Kinh.

Phản ứng đầu tiên là nghĩ ngay đến Noãn Noãn.

Tôi vội vàng rời chỗ thang máy, chạy ra cổng, đứng trước cổng cười ha ha hô hô một chập, vung chân múa tay một hồi, rồi mới lại quay vào trước cửa thang máy.

Không làm như vậy, lát nữa lên lầu ngộ nhỡ phấn khích quá, lại bị Tiểu Tào và Tiểu Hạ cười giễu.

“Về rồi đây,” bước vào nhà, tôi lãnh đạm nói.

“Anh đụt thứ ba cuối cùng cũng về rồi,” Tiểu Tào nói.

“Lại là một ngày bình thường như mọi ngày, đi đường đến nửa em gái ra hồn cũng không thấy,” tôi nói.

“Tỉnh lại đi, A Đụt,” Tiểu Hà nói.

Tôi cố nhịn cười, giấu kín thư, bước từng bước thong thả về phòng.

Trước khi sắp nội thương, cuối cùng cũng vào đến phòng, đóng cửa lại, phi một phát lên giường.

Bóc thư ra, thư Noãn Noãn viết kín hai trang giấy.

Noãn Noãn nói, việc học của em rất nặng, thời gi­an để ngủ cũng ít đi, có lẽ sắp già đến nơi rồi.

Sau đó Noãn Noãn kể rất nhiều những chuyện vụn vặt hàng ngày, cũng nói em gầy đi rồi.

Em còn nói mấy hôm trước có mua bánh rán sữa, biết tôi thích ăn, nhưng tiếc là không được ăn.

Thế là em đem bánh rán sữa cho vào túi giấy, lấy giấy viết thư bọc lại, qua bảy bảy bốn chín tiếng, lại đem giấy ấy ra viết thư.

“Anh có ngửi thấy mùi thơm của bánh rán sữa không?”

Tôi ngửi ngửi tờ giấy, hình như đúng là có thể ngửi thấy mùi thơm thật.

Nhưng tôi tin rằng, hương thơm này đến từ tấm lòng Noãn Noãn.

Đọc đến đây, tôi mới đột nhiên nhận ra, Noãn Noãn viết bằng chữ phồn thể.

Nhớ lại thầy giáo dạy Hán tự ở Bắc Kinh nói, từ chữ phồn thể học chữ giản thể dễ, từ chữ giản thể học chữ phồn thể khó.

Lúc Noãn Noãn viết bức thư này, nhất định đã tốn rất nhiều tâm huyết.

Cuối thư, Noãn Noãn viết:

“Bắc Kinh sắp có tuyết rồi, lúc nào đưa em tới Noãn Noãn đây?”

Tôi hơi buồn, đặt bức thư xuống, nằm ra giường.

Noãn Noãn, anh tin rằng em biết anh muốn dẫn em đi, dù có khó khăn thế nào

Anh tin rằng em biết.

Nếu như em ở dưới nước kêu cứu, phản ứng đầu tiên của anh sẽ là lập tức nhảy xuống nước, sau đó trong khoảnh khắc chết đuối mới nhớ ra là mình không biết bơi.

Dù cho phản ứng đầu tiên của anh trước khi nhảy xuống nước có là nhớ ra mình không biết bơi, anh cũng vẫn sẽ nhảy xuống; vì anh tin vào ý chí, tin rằng nó sẽ đem đến cho anh sức mạnh.

Nhưng khi em nói muốn tới Noãn Noãn, phản ứng đầu tiên của anh lại là nghĩ tới eo biển Đài Loan, đó là nơi không thể chỉ dựa vào ý chí mà vượt qua được, ít nhất là không phải ý chí của anh.

Vì vậy anh không thể nhận lời em được.

Tôi nằm rất lâu, không biết nên trả lời thư Noãn Noãn thế nào.

Cuối cùng đành đánh liều, thu hết tinh thần, bước xuống ngồi đến bên bàn sách.

Rút bảng đối chiếu chữ phồn thể giản thể ra, viết lại từng chữ từng chữ thành chữ giản thể.

Cái này không giống như e-mail, chỉ cần ấn nút chuyển đổi, bất kể bao nhiêu chữ cũng có thể chuyển sang giản thể, phồn thể trong nháy mắt.

Thế là số chữ có thể viết xong trong vòng nửa giờ, giờ lại phải mất đến ba tiếng.

Tôi nói với Noãn Noãn, mấy hôm trước ăn kem ở Thiên Lãnh cũng rất muốn cho em ăn một que.

Nhưng nếu tôi dùng giấy viết thư bọc kem lại qua bảy bảy bốn chín tiếng, e rằng giấy sẽ hỏng mất.

Cuối thư, tôi viết:

Bất kể tuyết ở Bắc Kinh có rơi lớn thế nào, Noãn Noãn cũng không có tuyết đâu.

Tôi tin rằng Noãn Noãn nhận được thư xong, nhất định sẽ mắng tôi lại xỏ lá.

Nhưng nếu tôi không chơi trò xỏ lá, thì còn có thể sao đây?

Tôi và Noãn Noãn chẳng phải mấy vị lãnh đạo thúc đẩy cơn sóng thời đại, mà chỉ là những người bình thường bị cơn sóng thời đại ấy đẩy đi.

Trong cơn sóng thời đại, tôi và Noãn Noãn vừa không biết đích đến, lại chẳng cách nào chọn nổi phương hướng.

Chỉ còn biết cố gắng mà sống.

Một năm mới đến, rời Bắc Kinh cũng đã được nửa năm.

Tốc độ của dòng chảy thời gian vượt xa tốc độ tăng trưởng của những con số tiền lương.

Thi thoảng kinh ngạc nhận ra sự vùn vụt của dòng thời gian, rồi lại bắt đầu ngẫm nghĩ đâu là ý nghĩa cuộc đời?

Đâu là mục tiêu phấn đấu?

Nhưng phần lớn vẫn cứ nhớ đến Noãn Noãn.

Noãn Noãn đang làm gì? Có vui vẻ không?

Tôi thường xem lại file ảnh Từ Trì gửi, đó là một dạng lưu luyến.

Mỗi lần nhìn thấy bóng lưng tôi và Noãn Noãn ngồi sát bên nhau uống sữa chua trong ánh chiều tà, tôi lại nhớ đến từ “thuần khiết”.

Lần tới gặp Noãn Noãn, liệu cái “thuần khiết” ban đầu có đổi thay?

Tôi mong ước biết bao, mãi được cùng Noãn Noãn vai kề vai ngồi đó, ung dung thưởng ngoạn ánh chiều tà; nhưng trong cuộc sống thực thường là dưới ánh chiều tà tôi lết tấm thân mệt mỏi sau một ngày làm việc trở về nhà.

Noãn Noãn, anh vẫn còn giữ phần thuần khiết ấy, anh cho rằng việc quan trọng nhất là cùng em ngắm ánh trời chiều; nhưng dù cho anh có sống chết ôm lấy sự thuần khiết đó, kiên quyết không buông tay, thì rồi sẽ có một ngày, anh cho rằng việc quan trọng nhất là kiếm tiền, thăng chức, mua nhà.

Tới lúc đó, thứ chi phối nhịp đập trái tim anh, có lẽ là mức tăng giảm của cổ phiếu; chứ không phải những vui buồn trong ánh mắt em.

Noãn Noãn, xin hãy cho anh sức mạnh, để anh có thể ôm chặt phần thuần khiết ấy.

Trước khi gặp em lần tới.

Lương Lương.

Thập Sát Hải đóng băng rồi.

Em đi trượt băng còn đắp cả người tuyết, rất giống anh.

Chỉ thiếu mỗi cặp kính.

Anh vẫn chưa biết trượt tuyết phải không? Nào, em dạy anh.

Ngã rồi không được khóc.

Khóc rồi vẫn cứ phải ngã.

Noãn Noãn ở Bắc Kinh.

Lương Lương.

Băng không đợi người đâu.Mùa xuân đến rồi, băng tan rồi.

Hoa sắp nở rồi, cỏ sắp mọc rồi, cây sắp xanh rồi.

Noãn Noãn sắp già thêm một tuổi.

Còn Lương Lương thì sao?

Noãn Noãn ở Bắc Kinh.

Lương Lương.

Nóng chết mất.

Uống bao nhiêu sữa chua.

Nhớ ra anh cũng thích uống, nhưng không được uống thì làm sao đây.

Em uống sữa chua chua cả miệng, Lương Lương không được uống, có thấy chua xót không.

Muốn gửi sữa bò cho anh, đến lúc anh nhận được có lẽ cũng thành sữa chua rồi.

Noãn Noãn ở Bắc Kinh.

Lương Lương.

Tuần sau phải bảo vệ luận văn rồi.

Thấy hơi căng thẳng.

Anh nói nhảm gì đấy đi.

Anh nói nhảm là em có tinh thần ngay.

Nhưng đừng nói mấy chuyện kiểu chó đội tóc giả màu vàng liền thành sư t

Noãn Noãn ở Bắc Kinh.

Lương Lương.

Em tìm được việc làm rồi.

Anh đoán xem lương tháng là bao nhiêu ông Mao Trạch Đông?

Nói cho rõ nhé, em làm việc ở Bắc Kinh đấy.

Lúc đó anh nói, trời không có gió đâu.

Noãn Noãn ở Bắc Kinh.


Chớp mắt một cái đã xa Bắc Kinh một năm rồi.

Noãn Noãn, anh từng nói nếu em ở lại Bắc Kinh làm việc, anh sẽ đến Bắc Kinh tìm em.

Anh nhớ chứ, anh chưa từng quên.

Châu Tinh Trì từng nói: Con người nếu không có mơ ước, vậy thì có khác gì cá mắm.

Anh đến giờ vẫn chưa thành cá mắm, đó là vì vẫn luôn ôm ước mơ tới Bắc Kinh tìm Noãn Noãn.

Để thực hiện ước mơ này, tôi phải tiết kiệm thêm ít tiền, để ra một khoảng thời gian rảnh.

Tiền tôi đã tiết kiệm được một ít, còn về thời gian, mọi người đều nói thời gian cũng giống như khe ngực, có dồn ép thế nào thì vẫn cứ có.

Về mặt lý luận, ước mơ không khó để thực hiện, nhưng chỉ cần nghĩ đến Noãn Noãn cũng đang làm việc, tôi lại thối lui.

Có khi nào tôi từ xa xôi chạy đến Bắc Kinh, còn Noãn Noãn lại đang cố gắng phấn đấu vì cuộc sống, không có tâm trạng chơi bời nghỉ ngơi.

Nhỡ may Noãn Noãn nói, anh đến không đúng lúc rồi, em đang bận lắm.

E rằng tôi sẽ sụp đổ trong nháy mắt.

Vì vậy tôi không cần khích động, kiểu khích động đừng nghĩ nhiều quá, đi là đúng rồi.

Những ngày bình thường cuối cùng cũng sẽ có chỗ không bình thường.

“Công ty muốn cử cậu đi Tô Châu một chuyến, ở nhà máy bên đó chừng ba tháng,” sếp nói. “Tầm cuối tháng Mười một đầu tháng Mười hai là có thể về Đài Loan. Cậu không có vấn đề gì chứ?”

“Không vấn đề gì ạ.” Tôi chẳng hề nghĩ ngợi gì. “Lúc nào thì đi ạ?”

“Tuần tới,” sếp nói.

“Không phải ngày mai ạ?” tôi nói.

Sếp có vẻ kinh ngạc, ngẩng đầu nhìn tôi.

Chỉ cần ở gần Noãn Noãn một chút, ước mơ có thể không xa vời nữa, huống hồ đã vượt qua eo biển Đài Loan khó vượt qua nhất.

Mấy ngày liền, cứ tan làm xong tôi lại sắp xếp hành lý, sẽ ở đó hơn ba tháng, không thể qua quít được.

Hỏi Tiểu Tào với Tiểu Hà thích quà gì?

“Cậu cầm máy ảnh đi trên phố, chụp hình các mỹ nữ Tô Châu rồi về đưa tớ,” Tiểu Hà nói.

“Nhân danh bạn cùng phòng với cậu, tớ thật khinh thường hành vi này của cậu,” Tiểu Tào cao giọng mắng Tiểu Hà.

Nói đoạn Tiểu Tào bèn cúi đầu xuống viết mấy chữ lên giấy, viết xong đưa tờ giấy cho tôi, trên giấy viết: “Tổng giám đốc Tào, anh thật là hào hoa lịch thiệp, phong độ ngời ngời, thật là đẹp trai quá, em sùng bái anh, em có thể hát một bài cho anh nghe không. (Tùy ý hát một bài)”

“Cái này để làm gì?” Tôi chỉ vào tờ giấy.

“Cậu chưa nghe nói tiếng Tô Châu êm ái dịu dàng lắm à?” Tiểu Tào nói.

“Kiếm một cô gái Tô Châu đọc to tờ giấy này một lượt, rồi hát thêm một bài, cậu ghi âm hết lại, rồi đem về đây cho tớ.”

“Cậu biến thái quá rồi đấy!” Tiểu Hà lớn tiếng nói.

Sau đó Tiểu Tào và Tiểu Hà lại cãi nhau ầm ĩ.

Tôi xé luôn tờ giấy, không thèm để ý đến bọn họ nữa.

Về phòng, mở máy tính, rồi lên mạng.

Noãn Noãn.

Ổi đi bệnh viện khám sỏi mật.

Dưa hấu đi bệnh viện khám xuất huyết nội.

Chuối đi bệnh viện khám vẹo cột sống.

He he, đấy gọi là nói nhảm.

Người phiêu bạt trong gi­ang hồ, phiêu này bạt này.

Phiêu bạt qua eo biển Đài Loan rồi.

Đâ nói thật.

Lương Lương ngày mai ở Tô Châu.


HẾT CHƯƠNG 10
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
Đăng lúc 21-6-2013 20:46:52 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 9


Thiếp đi một giấc, tỉnh lại đã sắp trưa.

Mở máy tính lên

Thư viết:

Lương Lương.

Anh còn sống là tốt rồi. Em rất khỏe, cũng vẫn sống.

Mau đi ăn cơm đi.

Noãn Noãn ở Bắc Kinh.


Tôi đi rửa mặt, rồi xuống nhà kiếm cái ăn.

Cảnh phố phường quen thuộc, giọng mọi người nói chuyện cũng quen thuộc, quả nhiên tôi đã về đến nhà rồi.

Ở Bắc Kinh 8 ngày liên tục phải nghe quá nhiều âm uốn lưỡi, cứ nghĩ rằng âm thanh trong không trung sẽ chẳng còn truyền theo đường thẳng nữa, mà biến thành từng vòng, từng vòng như xoắn ốc khoan vào trong tai.

Tai tôi sắp thành cái xoáy nước rồi.

Bất giác sờ lên tai, nói: Lúc trước đã để mày chịu khổ rồi.

Ăn no xong, lại xem lại file ảnh Từ Trì gửi một lượt.

Mắt vẫn dừng lại trước ảnh Noãn Noãn rất lâu.

Xem xong, mắt tôi hơi cay cay, dụi dụi mấy cái chẳng hiểu vì mắt cay, hay vì buồn mà có chút rơm rớm nơi khóe mắt.

Tôi tắt máy tính, nằm soài trên giường.

Mở mắt ra lần nữa, thì trời cũng đã tối.

Bất kể ban ngày hay ban đêm, tôi lại lặp lại quá trình đi kiếm cái ăn, bật máy tính, xem ảnh, thẫn thờ, nằm xuống.

Cảm thấy ba hồn bảy vía đã thiếu mất một hồn hai vía rồi, người cũng trở nên hơi thơ thẩn.

Cứ vậy mà sống qua ngày đầu tiên hoàn toàn không được thấy Noãn Noãn.

Hai ngày tiếp theo, tôi vẫn không sao thoát khỏi trạng thái nhớ Bắc Kinh, trong đầu hỗn loạn.

Khi thấy mình thực sự không sao bình tĩnh nổi, tôi bèn viết e-mail cho Noãn Noãn.

Trong hai ngày viết bảy bức e-mail, Noãn Noãn cũng gửi cho tôi bảy bức.

Nội dung trong thư đều là những sự vật cụ thể, chứ không phải cảm xúc gì trừu tượng.

Tôi không thể viết: Gió Đài Loan, trong đêm tối không em, vẫn cứ vô tình thổi.

Noãn Noãn cũng không thể viết: Mất đi hình bóng anh, ánh mặt trời Bắc Kinh chẳng cách nào sưởi ấm lòng em.

Chúng tôi đều chỉ có thể nói với nhau: Vẫn đang nỗ lực sống, làm những việc nên làm.

Thỉnh thoảng tôi cũng có ý định gọi điện thoại cho Noãn Noãn.

Bây giờ di động rất phổ biến, có thể tìm thấy ai đó bất kỳ lúc nào, bất cứ nơi đâu; nhưng cũng vì bất kỳ lúc nào, bất cứ nơi đâu, nên đối phương đang ở đâu, làm gì, bạn hoàn toàn chẳng thể biết.

Ví dụ như, ngày thứ ba tôi ở Bắc Kinh, có nhận một cuộc gọi từ một người bạn đại học.

“Giờ cậu có rảnh không?” cậu ta nói.

“Rảnh,” tôi nói.

“Ra ngoài xem phim đi.”

“Nhưng tớ đang ở Bắc Kinh cơ.”

“…”

Vì vậy tôi luôn cố kiềm chế ý muốn gọi điện cho Noãn Noãn.

Một mặt vì phí điện thoại có thể sẽ rất đắt, mặt khác là vì cảm thấy chưa có việc gì kỳ quái đặc biệt đến mức phải gọi điện thoại.

Nếu như đi trên đường tôi nhặt được rất nhiều tiền, hoặc đột nhiên trúng loto, vậy thì đều có thể thỏa mãn cả hai điều kiện trên; vừa có tiền lại vừa là chuyện cực kỳ hiếm gặp.

Nhưng tôi mãi vẫn chẳng nhặt được tiền, loto cũng chẳng mua.

Ngày thứ tư tỉnh dậy đã khá hơn nhiều, ít nhất cũng nhớ ra mình vẫn còn phải kiếm việc làm, gửi CV.

Tôi mở máy tính ra, nhận được một e-mail lạ, của Nhạc Phong gửi tới.

Tôi không chơi cùng Nhạc Phong nhiều, không thể coi là quen thân, trước khi về Đài Loan, cô ấy cũng không xin e-mail của tôi.

Sao giờ lại viết thư cho tôi chứ?

Đọc tiêu đề bức thư: Muốn nhờ anh một việc. Nhờ tôi một việc? Làm bạn trai cô ấy ư?

Chỉ trách tôi có thế nào cũng vẫn phong độ ngời ngời, Nhạc Phong mê tôi âu cũng có thể hiểu được.

Ài, tôi đúng là gây tội rồi.

Mở bức thư, trong thư viết:

Em biết e-mail của anh qua Noãn Noãn, xin cho em biết e-mail của bạn trai học dưới khóa anh, Vương Khắc cần.

Nhạc Phong.

Ps. Tiện thể chào anh.


Có lầm không đấy?

Là thư gửi cho tôi mà lại chỉ chào tôi ở phần ps, lại còn “tiện thể” nữa chứ.

Đến reply tôi cũng chẳng buồn làm, trực tiếp gửi thẳng thư cho cậu em kia.

Sau đó tôi chỉnh đốn lại tâm tư vừa bị cái cô Nhạc Phong kia đùa cợt, bắt đầu chỉnh sửa bản CV.

Ngoài phần trình bày quá trình học tập và chuyên ngành đã chuẩn bị từ trước, tôi còn viết thêm một bức thư xin việc đơn giản.

Thư xin việc viết bằng tay, trên giấy viết thư mua từ trường Bắc Đại.

Ở thời đại máy tính phát triển này, cũng coi như một điểm đặc biệt. Có khi nhờ đó mà thu hút ánh mắt của nhà tuyển dụng.

Tổng cộng tôi tìm được năm công ty, đơn xin việc cũng viết năm cái.

Viết xong, kẹp với CV, lần lượt nhét vào năm chiếc phong bì thư của Bắc Đại, tôi xuống nhà gửi thư.

Ba ngày sau tôi nhận được điện thoại hẹn phỏng vấn.

Ngày hôm sau, tôi đóng bộ ngồi tàu hỏa lên phía Bắc đi phỏng vấn.

Quả nhiên vừa gặp người ta đã hỏi tôi: “Vì sao anh dùng giấy và phong bì thư của Bắc Đại?”

“Tôi là bạn trường Bắc Đại,” tôi nói. “Một người bạn của trường Đại học Bắc Kinh, tôi đã ở đó nửa ngày.”

Người phỏng vấn tôi sững người giây lát, rồi nói:

“Hồi học thạc sĩ tôi có làm một bài nghiên cứu: người thích kể mấy chuyện cười nhạt, khi làm việc thường rất chăm chỉ. Vì những người này có tính khí lạ lùng, giao thiệp cũng không tốt, công việc trở thành nơi gửi gắm duy nhất của họ.”

Tôi không rõ điều này là tốt hay xấu? Trong lòng thấp thỏm không yên.

“Khi nào anh có thể tới làm việc?” một lúc sau, người đó nói.

“Càng sớm càng tốt ạ” tôi nói.

“Vậy thì bắt đầu từ tuần sau đi.”

“Không vấn đề gì ạ.”

Tôi tìm được việc rồi, chẳng hề có cảm giác hào hứng gì đặc biệt, chỉ như vừa hoàn thành một việc nên làm.

Sau đó lại tiếp tục nhận được hai cuộc điện thoại nữa, tôi đều lấy lý do đã tìm được việc rồi mà từ chối.

Dù gì đối với người mới như tôi trong xã hội chuyên nghiệp này, tính chất công việc đều giống nhau cả.

Tôi tìm được một căn hộ mới, chuẩn bị Bắc tiến.

Thu xếp mọi thứ xong xuôi, cái nào đóng gói thì đóng gói, cái nào xếp vào va li thì xếp vào va li, cái nào để lại thì để lại.

Ống cắm bút Noãn Noãn tặng nằm yên ổn trong ba lô tùy thân.

Hôm qua đã hẹn với công ty chuyển nhà, một tiếng nữa người của họ sẽ đến.

Máy tính đóng gói cuối cùng, vì tôi còn định viết một bức e-mail cho Noãn Noãn.

Trong thư tôi viết:

Noãn Noãn.

Anh tìm được việc rồi

Anh phải chuyển nhà, chuyển đến Tân Trúc. (Đài Loan chỉ có Tân Trúc, không có Cựu Trúc)

Ổn định xong xuôi, rồi anh sẽ thông báo địa chỉ mới cho em.

Lương Lương ở Đài Loan.


HẾT CHƯƠNG 9
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
Đăng lúc 21-6-2013 20:44:19 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 8


Trước đây trên xe luôn ngồi kín người, giờ số người chỉ còn một nửa, cảm thấy thật trống trải.

Trong xe thiếu đi tiếng cười, ngay tiếng chuyện trò cũng chẳng có, chỉ nghe thấy tiếng động cơ chạy.

Yên tĩnh quá.

Tôi mở gói quà Noãn Noãn tặng, là một ống đựng đồ hình trụ bằng kim loại, thảo nào nặng thế.

Cái ống cũng không hẳn là hình trụ, nhìn từ trên xuống, có lõm vào một ít, giống hình trăng non đầu tháng.

Ống cao khoảng 10 xăng ti mét, bên ngoài mạ vàng, nhưng sắc vàng không sáng, mà phảng phất nét xưa cũ giản dị.

Bề mặt chạm nổi họa tiết hai con rồng vờn ngọc, bên trong rỗng, nếu như để bút, có lẽ phải được khoảng mươi cái.

Tôi nghịch nghịch nó một hồi, rồi cẩn thận cất vào ba lô.

Đến sân bay Thủ Đô, xuống xe, mọi người ai nấy xách hành lý của mình.

“Tạm biệt các bạn, nhớ giữ liên lạc nhé.” Thầy Lý cười nói. “Hoạt động lần này có chỗ nào chưa chu đáo, mong các bạn bỏ quá cho.”

“Lên đường bình an” thầy Trương cũng nói.

Mấy ngày hôm nay, mỗi khi đến một điểm tham quan nào, thầy Lý lại tận tình giới thiệu, ân cần dịu dàng như một người cha; còn thầy Trương thì gần như ôm trọn mấy việc tạp vụ vào mình.

Nghe những lời khiêm nhường khách khí ấy của thầy Lý, mấy bạn gái lại đỏ hoe mắt.

Vài người tận dụng thời gian chụp hình kỷ niệm cùng hai thầy.

Tôi cũng nhân cơ hội nói tiếng cảm ơn thầy Lý từ tận đáy lòng, thầy nhẹ nhàng vỗ vai tôi.

“Tiễn bạn ngàn dặm, rồi cũng phải chia ly” thầy Lý nói.

Thầy Lý và thầy Trương cuối cùng bắt tay với thầy Chu, thầy Ngô, rồi lên xe ra về.

Làm xong thủ tục lên máy bay, va li cũng đã kiểm tra xong, lúc xếp hàng đợi kiểm tra an ninh, tôi thấy trong tay cậu em khóa dưới đang cầm một cuộn giấy, bèn hỏi: “Không phải cậu tặng cho Vương Khắc rồi à?”

“Cô ấy vừa đem trả em” cậu ta gượng cười đau khổ.

Nhìn dáng vẻ cô độc của cậu ta, tôi cũng không biết nên nói gì để an

Tôi đặt ba lô lên băng chuyền, khi ba lô đi qua máy X-quang, vẻ mặt của nhân viên an ninh có chút gì đó bất thường.

Nhân viên an ninh lôi từ ba lô tôi ra món quà Noãn Noãn tặng, hỏi: “Cái này dùng để làm gì?”

“Dùng để cho bút nghỉ ngơi” tôi trả lời.

“Hả?”

“Đây là…” Sợ lại rơi vào thảm cảnh trò cười của thìa với muỗng, tôi hơi do dự nhỏ giọng nói: “Ống cắm bút?”

“Ống cắm bút chứ gì?” Anh ta lại nhìn một lần nữa, rồi đưa trả lại cho tôi, nói: “Được rồi.”

Hóa ra các anh cũng gọi là ống cắm bút à.

Lúc sắp lại ba lô, tôi liếc thấy cuộn giấy của cậu em khóa dưới, bèn nhặt lên.

“Cậu đánh rơi này.” Tôi vỗ vỗ vai cậu ta.

Cậu em quay lại nhìn tôi một cái, nói: “Anh. Em không cần nó nữa, cho anh đấy.”

Tôi còn chưa mở miệng, cậu ta đã lại quay người đi thẳng.

Lên máy bay, ổn định chỗ ngồi xong, tôi tiện tay mở cuốn giấy ra.

Cuộn giấy vừa mở, từ trong đã rơi ra ba tờ giấy được cuộn giấu bên trong.

Tôi lần lượt mở ra từng tờ, chỉ nhìn qua đã biết là ba bức phác thảo chì.

Bức đầu tiên vẽ Trường Thành, bên trên có một đôi nam nữ, người con trai nắm tay người con gái leo lên; bức thứ hai vẽ đôi nam nữ trong khu ngõ cổ, người con gái ôm mặt khóc, người con trai nhẹ nhàng vỗ vai cô.

Bức thứ ba chắc là cầu thang dốc đứng trước Phật Hương Các, người con trai đứng trên cao nhất quay người lại kéo tay người con gái, người con gái cúi đầu, phía sau còn có một đôi nam nữ đứng hai bên trái phải cô gái cũng đang cúi đầu.

Ở phía dưới bên phải bức thư pháp “Tài tử”, còn có thêm hai chữ “Giai nhân” khá nhỏ.

Tôi không kịp nghĩ ngợi gì, lập tức đập đập vào cậu em đang ngồi phía trước, đưa bức thư pháp và ba tờ tranh cho cậu ta.

Cậu em vô cùng kinh ngạc, rồi lặng im trầm tư.

Cậu ta đột nhiên tháo dây an toàn, đứng lên, rời khỏi chỗ ngồi.

Tôi giật thót người, cũng lập tức tháo dây an toàn, đứng lên ôm chặt lấy cậu ta từ phía sau, nói: “Máy bay sắp cất cánh rồi, câu đừng có làm bừa!”

“Anh,” cậu ta quay đầu lại, “em chỉ đi vệ sinh thôi mà.”

Nói rồi cậu ta đi về phía nhà vệ sinh, hai mắt tôi vẫn dõi chặt theo sau.

Cô tiếp viên hàng không nói với cậu ta: Máy bay sắp cất cánh rồi, mời anh lát nữa hẵng dùng nhà vệ sinh.

Cậu em quay người đi về chỗ, ngồi xuống, đóng dây an toàn, rồi lại cầm cuộn giấy và bức tranh lên xem chăm chú.

Máy bay cất cánh, đèn cảnh báo dây an toàn cũng đã tắt, cuối cùng cậu ta mới chịu thu cuộn giấy và bức tranh lại.

Tôi thở phào nhẹ nhõm, nhắm hai mắt.

Noãn Noãn, anh càng lúc càng gần nhà, nhưng lại càng lúc càng xa em.

Từ Bắc Kinh đến Hồng Kông mất không đến bốn tiếng đồng hồ; thêm một tiếng ở Hồng Kông đợi chuyển máy bay; rồi từ Hồng Kông bay đến sân bay Đào Viên mất nửa tiếng; làm thủ tục thông quan, lấy hành lý mất 40 phút; ra khỏi sân bay ngồi xe về Đài Nam mất tiếng rưỡi; xuống xe đi taxi, mất 15 phút là về đến nhà.

Đoạn đường còn lại ngắn nhất mà cũng là xa nhất, tôi phải xách va ly leo lên năm tầng khu chung cư không có thang máy.

Đến nơi rồi, cũng mệt chết rồi.

Nằm trên cái giường quen thuộc lại có một cảm giác xa lạ.

Chỉ nằm được mươi phút, tôi lại ngồi dậy mở máy tính, lên mạng.

Nhận được e-mail của Từ Trì, bên trong có đính kèm rất nhiều ảnh.

Nhờ có mạng Internet, mấy tấm ảnh này còn hạ cánh sớm hơn cả tôi.

Tôi chăm chú xem từng tấm, gần như quên luôn hiện thực rằng mình đã trở về Đài Loan.

Nhìn tấm hình Noãn Noãn vô tình phì cười ở Thần Vũ Môn, tinh thần tôi chợt bị khuấy động.

Nhưng chẳng được bao lây, lại dậy lên một cảm giác trống trải mất mát.

Thở dài một tiếng, tôi lại xem tiếp, xem đến bức ảnh tôi chụp một mình trước Cửu Long Bích.

Cảm giác có chút gì quen thuộc, tôi cầm ống cắm bút Noãn Noãn tặng lên đối chiếu.

Hai con rồng vờn ngọc trên ống bút có nét duyên dáng rất giống hai con rồng trong Cửu Long Bích.

Có lẽ hình dáng hai con rồng trong tất cả các bức vẽ “ong hí châu” đều như vậy cả, nhưng tôi thà tin rằng đây là sự tỉ mỉ chu đáo của Noãn Noãn.

Lúc đó ở trước Cửu Long Bích, tôi khăng khăng muốn Tử Trì chụp cho mình một tấm hình riêng, vì vậy, em mới chọn món đồ này tặng tôi.

Noãn Noãn, em thật giống với chính tên mình, luôn khiến người ta thấy ấm áp trong lòng.

Tôi nâng niu cầm cái ống cắm bút trong tay.

Rồi đặt vào ngăn kéo tủ.

Vì không muốn nó dính chút bụi bặm nào, tôi thà cất nó trong một chỗ kín đáo.

Đây là kiểu yêu quý gì đây?

Điền e-mail của Noãn Noãn vào dòng người nhận, rồi gõ hai chữ:

Noãn Noãn.

Anh về đến nhà rồi, đi đường rất thuận lợi.

Em khỏe không?

Lương Lương ở Đài Loan.



HẾT CHƯƠNG 8
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách