|
(3)
Hôm sau, Trương Lệ Lệ không nhắc một chữ nào về việc say rượu nói mớ của mình, tôi không biết cô ấy có nhớ hay không, nên cũng giả vờ như không có gì xảy ra. Công việc thực tế nhưng bận rộn của tháng quân sự đã dễ dàng xóa nhòa chuyện này trong đầu tôi.
Nhìn những sinh viên mới lớn này, rời xa cha mẹ để tới đây học vấn, tôi bất giác nhớ lại dáng vẻ của mình năm xưa.
“Cô ơi, lúc cô xõa tóc ra, nhìn hơi giống cô nàng ngổ ngáo á.” Một nam sinh nói.
“Cô nàng ngổ ngáo gì?” Tôi không hiểu.
“Thì cái cô nàng ngổ ngáo trong phim Hàn Quốc đó.”
“Thật ra thì vóc dáng thua xa lắm.” Tôi khiêm tốn.
“Không phải nói chiều cao, chủ yếu là gương mặt bánh bao kìa.”
“……”
Mấy đứa này đang sỉ nhẹ tôi sao?
Gì mà mặt bánh bao, cái này gọi là mặt phúng phính, tôi kháng cáo trong lòng.
Trong khoảng thời gian đó, tôi và Trương Lệ Lệ có đi nhờ xe về trung tâm thành phố mua ít đồ dùng, không ngờ lại gặp được Trần Đình ngoài ký túc xá giáo viên.
“Thầy Trần.” Thấy trốn cũng không kịp nữa, tôi đành bưng mặt đến chào.
“Ồ, Tiết Đồng à, trùng hợp thật.” Thầy đến gần, “Tôi có mang ít đặc sản dưới quê lên cho Mộ Thừa Hòa, nhưng họ nói cậu ấy đã đi công tác ngay khi năm học mới vừa bắt đầu, còn tưởng là em sẽ có ở nhà, nên mang tới đây, không ngờ đến hai lần đều không gặp được.”
Tôi nhìn túi đồ trong tay của thầy. Người ngay không làm chuyện mờ ám, xem ra thầy cũng biết tôi sống ở đây rồi. Nếu đã có ý tránh khỏi Mộ Thừa Hòa để đến gặp tôi, vậy tức là có chuyện muốn nói rồi.
“Thầy Trần lên đó ngồi một lúc nhé.” Tôi nói.
Vào đến nhà, tôi rót cho thầy ly nước, sau đó cũng ngồi xuống trong gượng gạo.
Trần Đình nhìn quanh phòng khách, rất lâu cũng không lên tiếng.
Trong sự việc với Mộ Thừa Hòa, thật lòng mà nói tôi có hơi chột dạ với Trần Đình. Thầy đã từng cho tôi nhiều lời khuyên và cảnh báo đến vậy, bây giờ xem ra toàn là lời nói qua tai liền quên rồi.
“Mộ Thừa Hòa đã nói với tôi chuyện của hai người.” Cuối cùng thầy cũng mở lời.
Không ngờ thầy không phải nghe từ những lời bóng gió khác, mà là lời bộc bạch của Mộ Thừa Hòa.
“Dạ.” Tôi đáp.
“Con người của Mộ Thừa Hòa, nhìn có vẻ như lúc nào cũng vui vẻ, với ai cũng nói chuyện được, nhưng thật ra thì không mấy dễ gần. Nếu hai người đã lựa chọn như vậy, thì em nhất định đừng phụ lòng cậu ấy, cậu ấy không chịu nổi đả kích như vậy đâu.”
Nghe những lời của Trần Đình, tôi bèn nghĩ, sao mà giống như bố vợ nói chuyện với con rể thế này! Tôi thì có thể làm gì Mộ Thừa Hòa chứ?
Trần Đình đốt một điếu thuốc lên, “Những ngày này em không ở đây à?”
“Trường em đang trong tháng quân sự, hơn nữa mỗi khi đi công tác, anh ấy đều bảo em về ký túc xá trường, không cho em ở lại đây một mình.” Có lẽ vì lo lắng tôi sẽ sợ chăng.
Thầy hút một hơi thuốc lá, rồi nhìn căn hộ.
“Tiết Đồng, tôi và Mộ Thừa Hòa quen nhau cũng mười mấy năm rồi. Cậu ấy là con một, không có anh chị em, lại nhỏ hơn tôi bốn tuổi, vì thế tôi luôn xem cậu ấy như em trai của mình. Và có lẽ, cậu ấy cũng nghĩ vậy.”
“Anh ấy thường kể chuyện về thầy khi còn học ở Nga.”
“Tôi nói với em những lời này, thì không xem em là học sinh của mình nữa, chỉ là bạn bè, hoặc là em dâu.” Chân mày của thầy nhíu lại giữa làn khói trắng, “Vì thế, chúng ta đang nói chuyện với xuất phát điểm là một người thành niên.”
“Em hiểu.”
“Tôi sang nước Nga sau khi tốt nghiệp phổ thông, lúc ấy vì điểm thi không cao lắm, lại thêm vào có người thân làm ăn bên ấy, nên ba mẹ đã đưa tôi sang đó. Tôi học lớp dự bị, sau đó mới thi vào viện phổ thông.”
Tôi chỉ lắng nghe, không hiểu thầy nói ra những điều này là có ý gì.
“Hai năm sau đó tôi mới quen biết Mộ Thừa Hòa. Lúc ấy,” Trần Đình ngẫm nghĩ đôi lúc, “Cậu ta độ 17 tuổi. Nghe nói cậu ấy rất nổi tiếng, thứ nhất là vì thông minh, học bổng cao nhất của Đại học Moscow rất ít khi trao cho người nước ngoài, nhưng chỉ duy nhất Mộ Thừa Hòa, tuổi nhỏ như vậy mà lại học lớp cao hơn tôi, tương lai sáng rạng. Thứ hai là vì cậu ấy đẹp trai, nữ sinh lớn hơn cậu ấy 7, 8 tuổi cũng mang lòng yêu thầm, làm bọn người chúng tôi đều rất ấm ức. Thứ ba nữa là tính tình cậu ấy cực kỳ dễ dãi, hiền đến kỳ lạ, thậm chí nếu em đột nhiên tát cậu ấy một cái, cậu ấy không chỉ không giận mà còn cười với em, như là không có chuyện gì xảy ra vậy.”
“Khi đó tôi mới nghĩ, một người trẻ tuổi như vậy mà gia giáo tốt đến thế, thật là quái lạ, con người như vậy mà bình thường sao? Không phải người chết thì ắt là người điên.”
“Mãi cho đến khi tôi thấy cậu ấy hút cây gai dầu.”
Tim tôi chợt thiếu mất nửa nhịp. “Ma túy?”
“Cậu ấy che giấu rất tốt, nếu không phải vì ở chung một nhà, và đặc biệt để ý quan sát, tôi cũng không thể phát hiện. Và nếu như lúc ấy không phát hiện, thì có lẽ em cũng không thể nhìn thấy Mộ Thừa Hòa của hôm nay nữa.”
“Có những người vì ham chơi mà đi du học, có khi chẳng hề tốt nghiệp, chỉ cầm phí sinh hoạt và học phí ba mẹ cung cấp để đi chơi khắp nơi, đến lúc tốt nghiệp thì cầm chứng chỉ giả về nước, loại người như thế không ít. Nhưng Mộ Thừa Hòa thì khác. Chúng tôi đều biết gia cảnh của cậu ấy không bình thường, nếu không vào dịp lễ tết, người của lãnh sự quán cũng không đến thăm cậu ấy. Nhưng cậu ấy lại ngoan đến khác thường, yên tĩnh lại dễ tính. Làm sao ngờ được một thiếu niên ngoan như thế lại hút thuốc phiện, hơn nữa còn không phải là thời gian ngắn.” Trần Đình nói.
“Nhưng, tại sao anh ấy lại…?”
Tôi hỏi Trần Đình, những tôi càng muốn hỏi Mộ Thừa Hòa.
Trần Đình đứng dậy, nhìn quanh phòng khách.
“Em có biết vì sao khi phải đi công tác, Mộ Thừa Hòa sẽ không cho em ở đây một mình không?”
Tôi như một khúc gỗ, lắc đầu.
“Căn nhà này đã tu sửa hai lần. Trước đây cửa lớn không phải dạng cửa chống trộm như bây giờ, mà là loại cửa cổ kính, phía trên có một kính cửa sổ nhỏ, phía dưới là gỗ.” Trần Đình miêu tả.
“Em biết loại cửa đó, kính cửa sổ bên trên có thể mở ra thành từng khe nhỏ.” Tôi đáp.
“Đúng lúc có thể thòng dây vào đấy, rồi thắt rút, móc lủng lẳng trên cửa, treo cổ trên đó càng tiện.”
Chuyện này tôi cũng biết, trước đây có một nữ phạm nhân trong trại giam nơi mẹ tôi làm việc đã treo cổ bằng dây giày như thế, lúc ấy tôi còn nhìn thấy cô gái tự tử không thành ấy trong bệnh viện. Nhưng, những lời Trần Đình nói, và cả sự thật đang dần sáng rõ kia, khiến bàn tay của tôi không tự chủ mà run lên.
“Ba của Mộ Thừa Hòa đã chết như thế. Thời gian về sau sức khỏe của cậu ấy không tốt, nhưng lời nói lại đặc biệt nhiều, nên mới kể cho tôi nghe. Mộ Thừa Hòa nói, lúc ấy cậu ta còn đang ngủ trong phòng, sáng sớm thức dậy thì đã thấy ba mình treo trên cửa, toàn thân đã cứng lạnh.”
Sự thật vạch ra, một nỗi đau từ đâu đó hung dũng ép sát vào đầu tôi, nước trong cơ thể dường như đều đã hội tụ vào khoang mắt, chỉ chực trào ra. Tôi muốn khóc, nhưng tôi không thích khóc trước mặt người ngoài, vì thế tôi cố sức mà mở to mắt, hít thở sâu.
“Em biết rồi, em biết rồi, em biết……” Tôi không ngừng nói như thế với Trần Đình.
Trần Đình thấy vậy, bèn đi tới bên xoa đầu tôi.
“Tôi xem em là một cô gái đã trưởng thành nên mới nói với em. Mộ Thừa Hòa không dễ dàng, mấy năm trước vẫn còn uống thuốc chống u uất, suy cho cùng tôi cũng là người ngoài, có một số việc tự cậu ấy sẽ nói với em. Tiết Đồng,” Thầy trầm ngâm một lúc mới tiếp tục, “Hy vọng em thật lòng thật dạ yêu cậu ấy. Nếu không, bây giờ rút lui vẫn còn kịp.”
Về sau, khi đến giờ hẹn với Trương Lệ Lệ, tôi mới ra ngoài, suốt chặng đường tôi không hề nói gì.
Lần đầu tiên khi đến đó, anh ấy đã dùng giọng điệu trêu ghẹo bảo có người từng treo cổ trên cửa, tôi còn tưởng đó chỉ là một lời nói đùa.
Chả trách anh ấy có nhà không ở, lại chạy tới chỗ Trần Đình.
Cũng chả trách anh ấy lại nói, không có tôi, anh ấy không có dũng khí ở lại đó nữa.
Ban đêm khi nói chuyện điện thoại với Mộ Thừa Hòa, tim tôi chua chát vô cùng, song lại không biết phải mở lời như thế nào cho những chuyện đó.
(4)
Mỗi buổi tối khi ăn cơm xong, học sinh nghỉ ngơi một lúc sẽ phải tiếp tục tập huấn ca đêm, tuy nhiên cường độ nhẹ hơn nhiều. Có khi sẽ là làm vệ sinh, có khi sẽ chia đội hát bè.
Đang trong lúc vui chơi với mọi người, thì nhận được điện thoại của mẹ.
Ở ngoại ô như thế này, buổi tối chẳng có tiết mục gì, chỉ còn mỗi việc luân phiên nghe điện thoại từ bạn bè và người thân thôi. Và mẹ thì siêng gọi cho tôi hơn cả Mộ Thừa Hòa.
“Mẹ,” Tôi hỏi, “Không phải mẹ đang trong ca trực sao?”
“Vốn dĩ là tới mẹ trực, ai ngờ bác Trần của con đột nhiên đi xe đường dài sang đây, nên mẹ đổi ca trực với người khác.”
“Ồ.” Lần này, tôi biết người mẹ đang nói là ai rồi.
“Con xem đó, mẹ đã nói sẽ không nhắc ông ấy trước mặt con…..”
“Mẹ à, hai người chuẩn bị khi nào kết hôn?”
“Hả?” Mẹ bất ngờ.
“Chẳng phải từ năm ngoái mẹ đã nói muốn kết hôn sao? Cũng lâu vậy rồi, sao không nghe mẹ nhắc đến?”
“Mẹ…. con….” Hiển nhiên là mẹ có hơi kinh ngạc với thái độ của tôi.
“Lúc trước con không đồng ý, không có nghĩa là bây giờ con vẫn không đồng ý. Chỉ cần bác ấy tốt với mẹ, mẹ cảm thấy vui là được.” Tôi dịu giọng.
Tôi đã từng hỏi Mộ Thừa Hòa về vấn đề mẹ anh ấy tái hôn, anh ấy đã đáp tôi rằng: “Khi mới bắt đầu là hận, sau này lớn lên rồi suy nghĩ lại, mới biết thật ra đó là ích kỷ.”
“Bây giờ anh không để tâm nữa sao?”
“Nói hoàn toàn không để tâm là giả thôi. Nhưng, chúng ta không có quyền dùng khoái cảm của mình mà chà đạp hạnh phúc của người khác.”
“Tiết Đồng, cám ơn con.” Mẹ rất vui.
“Mẹ, ba mẹ bắt đầu thường xuyên cãi nhau là từ sau lần con bị bắt cóc trong công viên đúng không? Mẹ trách ba, và ba trách mẹ.”
“Sao đột nhiên con lại hỏi chuyện này?”
“Con luôn tưởng là vậy.”
“Không phải, không phải. Ba mẹ không hợp nhau, chuyện không phải vì con.”
“Vậy là về sau ba có người khác rồi?”
“Sao đột nhiên con lại nói thế?”
“Lần trước khi đứng trước mộ, mẹ giận quá nói hớ nửa câu, lúc ấy con đã đoán ra.”
“Đồng Đồng…”
Không hiểu vì sao, mẹ chợt gọi tôi như thế, cũng với giọng điệu ấy, tôi bỗng có cảm giác như mình lại trở về lúc nhỏ, khi chưa đổi tên, tên là Tiết Đồng. Mọi người đều gọi Đồng Đồng, Đồng Đồng, bởi vì mẹ họ Đồng. Nhưng bà nội tôi lại nói, một người phụ nữ sao có thể chiếm mãi tên của con cháu nhà họ Tiết, cho nên tôi đã bị đổi tên.
“Tại sao mẹ không nói với con sớm hơn?”
“Ba mẹ vốn định chờ con lên đại học rồi mới nói với ông bà nội của con, rằng ba mẹ sẽ ly hôn, ngờ đâu lại xảy ra tai nạn đó. Mẹ nghĩ, con yêu ba đến vậy, bây giờ ba cũng chết rồi, hà tất còn phải nói ra?”
“Mẹ, trước đây con đã không hiểu cho mẹ, bây giờ con cũng có người mình yêu rồi, con biết làm một người phụ nữ không đơn giản.”
Dường như mẹ đã khóc, một lúc sau mới bảo: “Dắt nó đến gặp mẹ đi. Tiểu Lý bảo Tiểu Mộ rất đẹp trai.”
“Còn một chuyện con phải nói với mẹ.”
“Nói đi.”
“Mộ Thừa Hòa là giáo viên của Đại học A, hiện giờ chúng con đang ở chung một nhà.”
Bên kia điện thoại, mẹ khựng lại một lúc, sau đó như đã lấy lại sự bình tĩnh thường ngày, mẹ hỏi: “Cậu ta còn độc thân chứ?”
“Dạ.”
“Chưa từng kết hôn?”
“Dạ chưa.”
“Trong nhà còn ai?”
“Ba của anh ấy trước đây cũng là giáo viên trường đại học A, đã qua đời. Mẹ anh ấy là công chức viên, nghe nói chức vụ rất cao. Có một người cha kế, còn có một em gái, nhưng không thường xuyên liên lạc.”
“Con cảm thấy Tiểu Mộ có thật lòng với con không?”
“Con….” Mặt tôi chợt đỏ lên, “Làm sao con biết anh ấy có thật lòng không chứ.”
“Con ngốc à, những chuyện này, tự mình sẽ có cảm giác, gạt được người ngoài, không gạt được bản thân đâu.”
Tôi nghiêm túc ngẫm nghĩ, ngẫm rồi lại nghĩ, cuối cùng gật đầu, “Anh ấy thật lòng.”
“Con muốn sống suốt đời với cậu ta chứ?”
“Muốn.”
“Vậy thì đừng quan tâm người khác sẽ nói gì nữa. Áp lực của cậu ta lớn hơn con, chỉ khi con vượt qua được thử thách này, Tiểu Mộ mới có thể vượt qua.”
Câu nói này của mẹ giống như một viên thuốc định thần vậy, tôi chợt hiểu ra.
Tôi sợ gì chứ?
Chuyện đáng sợ nhất giữa hai chúng tôi, chẳng còn gì khác nữa ngoài việc mất đi anh ấy.
Trước khi ngủ, tôi không biết phải làm gì bèn cầm điện thoại lên xem hình ảnh trong bộ sưu tập, đến những tấm gần cuối, tôi nhìn thấy tấm hình của hai năm trước.
Đó là buổi hội thảo hàng không của hai năm trước, tôi trốn học lẻn theo sư huynh Lý vào nghe bài diễn thuyết của Mộ Thừa Hòa. Bạch Lâm gửi tin nhắn nằng nặc bắt tôi phải chụp một tấm ở hiện trường về.
Mộ Thừa Hòa đứng trên khán đài, áo vest thẳng tắp, nụ cười ung dung, lịch lãm đầy phong thái.
Vì khoảng cách quá xa, độ phân giải lại không lớn, do đó tấm hình không rõ một chút nào, để đến khi tôi phóng to đến hết cỡ, thì gương mặt của anh ấy đã càng thêm mơ hồ.
Nhưng, khi tôi nhắm mắt lại, lập tức có thể nhớ ra thần sắc của anh ấy lúc đó.
Trí tuệ đến thế.
Nho nhã đến thế.
Trương Lệ Lệ đang đập mũi trên giường.
“Lúc nhỏ cô có ước mơ gì không?” Tôi nằm ngửa người, hỏi bâng quơ.
Trương Lệ Lệ suy nghĩ một lúc, “Mơ được làm thị trưởng, tôi đã viết bài tập làm văn như thế đấy, còn được lãnh thưởng nữa, ai ngờ đâu bây giờ lại thế này.”
Tôi cười, áp điện thoại vào trước ngực, “Tôi có quen một người, người đó nói với tôi ước mơ và lý tưởng là không giống nhau. Ước mơ nhiều lúc ở xa tầm với, nhưng lý tưởng thì có thể thành hiện thực, chúng ta nỗ lực vì nó, thì sẽ thực hiện được mục tiêu. Khi chúng ta hoàn thành từng cái lý tưởng, vậy chúng ta sẽ đến gần ước mơ ban đầu.”
“Chuyện đó khó biết chừng nào, y như Đường Tăng đi thỉnh kinh vậy.”
“Lúc trước tôi cũng nghĩ như thế. Nhưng người mà tôi quen biết ấy đã gần như thực hiện được rồi. Anh ấy đang từng bước thực hiện ước mơ của mình, kiên định và quật cường đến thế, khiến tôi phải ganh tỵ.”
Tôi như bị trúng tà thuật vậy, cứ nói mãi không ngớt.
“Bây giờ tôi nhớ ra rồi, tôi cũng có ước mơ.” Tôi bảo, “Phiếu đăng ký nguyện vọng khi thi đại học là do tôi tự điền, tôi chỉ chọn ngoại ngữ, vì tôi đã từng muốn làm một người phiên dịch. Khi còn nhỏ, mới tiếp xúc với ngoại ngữ, tôi không thích một chút nào. Nhưng ba tôi lại rất quan tâm theo dõi tin thời sự, mỗi năm đều có chương trình phỏng vấn hiện trường trực tiếp, ba rất thích xem. Tôi vừa làm bài tập vừa nghe, trong lòng rất khâm phục những người phiên dịch ấy, có thể vừa nghe vừa dịch lại lời của người khác. Sau này người lớn nói với tôi, đó không phải là phiên dịch thông thường, đó là dịch cabin, là một loại phiên dịch rất cao cấp.”
“Thế là tôi nghĩ, tôi cũng phải làm một người như thế, vì vậy tôi mới chọn ngành ngoại ngữ.”
“Nhưng, trong bốn năm học ấy, tôi lại chỉ biết phải lấy điểm cao, phải thi đậu, phải tìm một công viêc tốt. Nhưng công việc thế nào mới được cho là tốt? Ở lại trong thành phố, lương cao, công việc nhẹ nhàng, sếp dễ tính. Tôi đã dần quên mất lý tưởng ban đầu.”
Hai chúng tôi cùng im lặng rất lâu, rất lâu.
Cuối cùng Trương Lệ Lệ hỏi: “Cô muốn dịch cabin?”
“Ừm.”
“Nhưng đâu có dễ như vậy?”
“Lúc nãy tôi cũng suy nghĩ qua rồi, tôi sẽ thi vào làm nghiên cứu sinh trong Học viện phiên dịch trước, sau đó thử xem sao.”
Tôi cầm điện thoại lên nhìn tấm ảnh ấy một lần nữa, trong bóng đêm, luồng sáng xanh mờ từ màn hình tỏa ra.
“Cô có nhớ bài thơ của Thư Đình mà chúng ta được học hồi trung học không?” Tôi hỏi.
“Gửi tặng cây sồi?”
“Tôi đã học bài thơ đó mấy lần mà cũng không thuộc, cuối cùng bị cô dạy văn phạt chép mấy chục lần.”
Trương Lệ Lệ cười bảo, “Phàm là những thi ca hay văn chương có liên quan đến tình yêu, tôi đều thuộc rất nhanh.” Nói xong, Trương Lệ Lệ khẽ đọc lại bài thơ ấy.
“Gửi tặng cây sồi – Thư Đình
(tạm dịch)
Nếu như em yêu anh
Em tuyệt đối sẽ không làm một dây leo như lăng tiêu
Bám vào cơ thể của anh để làm nổi bật chiều cao của mình;
Nếu như em yêu anh
Em tuyệt đối không học theo những con chim si tình
Lặp đi lặp lại một bản nhạc giữa mây cao rừng xanh;
Cũng không như nguồn nước suối,
Mang niềm an ủi quanh năm cho cảnh vật tiêu điều;
Cũng không làm đèo núi hiểm trở,
Tăng thêm độ cao của anh, điểm thêm nét oai hùng của anh.
Thậm chí là ánh mặt trời.
Thậm chí là mưa ngày xuân.
Không, tất cả những điều này cũng chưa đủ!
Em bức thiết phải là cây gạo mọc bên cạnh anh,
Làm một hình tượng đại diện, đứng ở bên cạnh anh.
……”
Giọng nói của Trương Lệ Lệ ngày thường đã rất hay rồi, giờ đây cô hạ thanh âm xuống, ngâm thơ trong màn đêm yên tĩnh như vậy, càng làm rung động lòng người. Không biết là câu nào đã xúc động vào sợi dây cung trong đáy lòng cô, khi chữ cuối cùng thốt ra, tôi nghe thấy tiếng nấc nghẹn ngào của cô ấy.
“Tiết Đồng, cô nói xem, tôi còn có thể gặp được một tình yêu như vậy không?” Cô ấy hỏi.
“Còn phải hỏi sao? Chắc chắn là có.” Tôi vừa đáp, vừa quay mặt vào tường vờ như muốn ngủ.
Rất lâu rất lâu sau, tôi mới lại mở mắt ra, lặng lẽ lau đi nước mắt trên mặt mình, trong lòng thầm nói: “Mộ Thừa Hòa, em cũng sẽ làm cây gạo của anh.” |
|