|
Chương 1
Khi sắp mười ba tuổi, anh trai Jem của tôi bị gãy ngay khuỷu tay. Khi lànhlại, nỗi sợ không bao giờ có thể chơi bóng được nữa của Jem đã dịu bớt, anh ítnghĩ ngợi về thương tật của mình. Cánh tay trái của anh hơi ngắn hơn cánh tayphải; khi đứng hoặc đi, mu bàn tay anh cứ thẳng góc với thân mình, ngón cáisong song với đùi. Anh hoàn toàn không quan tâm, miễn là anh còn chuyền và lốpbóng được.
Sau nhiều năm tháng trôi qua đủ để giúp chúng tôi nhìn lại, đôi khi chúngtôi bàn bạc về những sự kiện đưa đẩy đến tai nạn này. Tôi vẫn cho rằng tất cảlà do nhà Ewell, nhưng Jem, lớn tôi bốn tuổi, lại bảo chuyện này đã bắt đầu từtrước đó rất lâu. Anh nói chuyện đó bắt đầu vào mùa hè khi Dill đến chơi với chúngtôi, lúc Dill lần đầu mớm cho chúng tôi ý tưởng kéo được Bob Radley ra khỏinhà.
Tôi nói nếu anh muốn có một cái nhìn bao quát về sự việc này, thì thực sựnó bắt đầu với Andrew Jackson. Nếu tướng Jackson không đẩy người Da đỏ Creek[1] lên thượng nguồn thì Simon Finch sẽ không bao giờ chèo thuyền đến Alabama,và liệu chúng tôi sẽ ở đâu nếu ông không làm việc đó? Chúng tôi đã quá lớnkhông thể dàn xếp một cuộc tranh cãi bằng nắm đấm, vì vậy chúng tôi hỏi ý kiếnbố Atticus. Bố nói cả hai đứa tôi đều đúng.
Là dân miền Nam, một số người trong gia tộc thấy xấu hổ vì chúng tôi chẳngcó tổ tiên nào được lưu danh ở phía bên này hoặc bên kia trong trận Hasting[2]. Chúng tôi chỉ có mỗi Simon Finch, một tay bào chế thuốc bẫy thú lấy lônggốc từ Cornwall, người chỉ để cho thói keo kiệt vượt trội hơn so với lòng mộđạo của mình. Ở Anh, Simon tức tối trước việc bách hại những người tự xưng làtín đồ phái Giám lý dưới tay các đạo hữu cấp tiến hơn của họ và vì Simon cũngnhận mình là tín đồ Giám Lý nên ông ta tìm đường vượt Đại Tây Dương đếnPhiladelphia, sau đó đến Jamaica, rồi đến Mobile, và lên đến Saint Stephens.Luôn nghĩ đến những phê phán của John Wesley [3] về thói lắm lời trong việc muabán, Simon kiếm tiền bằng việc hành nghề y, nhưng trong việc này ông ta khôngvui vì sợ mình bị cám dỗ phải làm những điều mà ông biết rằng không vì vinhquang của Chúa, như việc đeo vàng trên người và mặc quần áo đắt tiền. Vì thếSimon, sau khi quên đi châm ngôn của thầy giáo mình về việc sở hữu nô lệ, đãmua ba nô lệ và với sự trợ giúp của họ ông lập một trang trại trên bờ sôngAlabama, cách Saint Stephens khoảng bốn mươi dặm về phía thượng nguồn. Ông chỉtrở lại Saint Stephens một lần, để tìm vợ, và ông đã cùng bà tạo dựng một dònghọ với nhiều con gái. Simon sống rất thọ và chết trong giàu có.
Thông lệ của người trong gia tộc này là vẫn ở lại trang trại của Simon, nócó tên là Finch’s Landing, và kiếm sống bằng nghề trồng bông vải. Trang trạinày hoàn toàn tự túc: khá khiêm tốn so với những đại nông trại xung quanh,nhưng Landing vẫn sản xuất được mọi thứ để duy trì cuộc sống trừ nước đá, bộtmì và những thứ y phục, vốn phải mua từ những ghe thương hồ từ Mobile.
Simon nhìn sự náo loạn giữa miền Nam với miền Bắc với nỗi giận dữ bất lực,vì nó khiến cho con cháu ông bị tước đoạt hết mọi thứ trừ đất đai của chúng,nhưng truyền thống sống bám vào đất vẫn được duy trì đến nhiều thập niên củathế kỷ hai mươi, khi bố tôi, Atticus Finch, đến Montgomery đế học luật, và emtrai bố đến Boston học y. Chị Alexandra của bố là người họ Finch vẫn ở lạiLanding: bà cưới một ông chồng ít nói, người dành phần lớn thời gian nằm trênchiếc võng cạnh bờ sông mà tự hỏi những dây câu của mình đã dính cá hết chưa.
Khi được nhận vào luật sư đoàn, bố tôi trở về Maycomb và bắt đầu hành nghề.Maycomb, cách Finch’s Landing mười hai dặm về phía Đông, là trung tâm của hạtMaycomb. Văn phòng của bố Atticus tại tòa án chẳng có gì nhiều hơn một cái giátreo mũ, một ống nhổ, một bàn cờ đam và một cuốn luật Alabama còn mới nguyên.Hai thân chủ đầu tiên của bố là hai người cuối cùng bị treo cổ trong nhà tù hạtMaycomb. Bố Atticus đã cố thuyết phục họ chấp nhận sự khoan hồng của tiểu bangtrong việc cho phép họ nhận tội giết người cấp độ hai [4] và giữ được mạngsống, nhưng họ thuộc dòng tộc Haverford, ở hạt Maycomb cái tên này đồng nghĩavới thằng ngốc. Những tay Haverford này đã giết chết người thợ rèn giỏi nhấtcủa Maycomb trong một vụ hiểu lầm xuất phát từ việc bắt giữ một con ngựa bị coilà sai trái, thật thiếu khôn ngoan khi làm việc đó trước mặt ba nhân chứng, và cứkhăng khăng rằng đồ-chó-đẻ-nếu-hắn-có-ý-đó là cách biện hộ đủ hiệu quả cho bấtcứ ai. Họ nhất quyết rằng mình không phạm tội giết người cấp độ một, vì vậy bốAtticus không thể làm gì hơn cho thân chủ trừ việc có mặt vào lúc họ lên đường,một vụ xử có lẽ là khởi đầu cho nỗi chán ghét đối với ngạch luật sư hình sự củabố.
Trong năm năm đầu ở Maycomb, bố Atticus thực hành tiết kiệm hơn bất cứ thứgì khác, trong nhiều năm sau đó bố đầu tư thu nhập của mình vào việc học hànhcủa em trai bố. John Hale Finch nhỏ hơn bố mười tuổi và chọn học nghề y vàothời điểm mà việc trồng bông vải không còn sinh lợi nữa; nhưng sau khi giúp chúJack [5] khởi nghiệp, bố Atticus có được thu nhập đáng kể từ nghề luật. Bốthích Maycomb, ông sinh ra và lớn lên ở hạt Maycomb; ông biết rõ dân ở đây vàhọ cũng biết bố, và do công việc làm ăn của Simon Finch, nên bố Atticus có quanhệ họ hàng hoặc thông gia với hầu hết các gia đình ở thị trấn này.
Maycomb là một thị trấn cổ, nhưng nó là một thị trấn cổ chán ngắt khi lầnđầu tiên tôi biết nó. Vào mùa mưa đường phố trở nên lầy lội đỏ quạch; cỏ mọctrên hai lề đường, tòa án ủ rũ ở quảng trường. Không hiểu sao hồi đó trời nónghơn: một con chó mực khổ sở trong ngày hè; mấy con lừa trơ xương bị buộc vàonhững cỗ xe hai bánh lo đuổi ruồi trong bóng râm nồng nực của những cây sồitrên quảng trường. Đến chín giờ sáng những chiếc cổ cồn cứng của các ông rũxuống. Các bà tắm trước buổi trưa, rồi sau giấc ngủ ngắn lúc ba giờ, và khi đêmxuống họ trông giống như những chiếc bánh bơ mềm phủ mồ hôi và phấn rôm ngọt.
Hồi đó người ta di chuyển chậm chạp. Họ thơ thẩn qua quảng trường, lê bướcra hoặc vào các cửa hàng quanh đó, rề rà trong mọi chuyện. Một ngày hai mươibốn giờ nhưng có vẻ như dài hơn. Chẳng có gì vội vã, vì chẳng có nơi nào để đi,không có gì để mua và không có tiền để mua [6] chẳng có gì để thăm thú bênngoài địa giới hạt Maycomb. Nhưng đó là thời kỳ lạc quan mơ hồ của một sốngười: đến gần đây người ta đã bảo với hạt Maycomb rằng nó chẳng có gì để sợngoài chính nỗi sợ hãi [7].
Chúng tôi sống ở con phố chính của thị trấn-bố Atticus, Jem và tôi, thêmCalpurnia đầu bếp của chúng tôi. Jem với tôi thấy bố rất dễ chịu: ông chơi vớichúng tôi, đọc cùng chúng tôi, và đối đãi với chúng tôi với sự xa cách lịch sự.
Calpurnia lại khác. Bà toàn góc cạnh và xương xẩu; bà cận thị; bà lé; bàntay bà to bè như thanh giát giường và cứng gấp đôi. Bà luôn xua tôi khỏi nhàbếp, hỏi tôi sao không cư xử ngoan ngoãn được như Jem mặc dù bà biết anh ấy lớnhơn, và gọi tôi về nhà khi tôi không muốn về. Những trận chiến của chúng tôithật hùng tráng và chênh lệch. Calpurnia luôn luôn thắng, chủ yếu vì bố Atticuslúc nào cũng đứng về phía bà. Bà đã ở với chúng tôi từ khi Jem chào đời, vàtrong những chừng mực gì còn nhớ được thì tôi đều cảm thấy sự có mặt độc đoáncủa bà.
Mẹ chúng tôi mất khi tôi lên hai, vì vậy tôi không hề cảm thấy thiếu vắngbà. Bà là một người thuộc họ Graham gốc ở Montgomery; bố Atticus gặp mẹ khi lầnđầu bố được bầu vào cơ quan lập pháp bang. Lúc đó bố đã trung niên, mẹ nhỏ hơnbố mười lăm tuổi. Jem là kết quả của năm đầu họ lấy nhau; bốn năm sau tôi chàođời, và hai năm sau mẹ tôi mất vì một cơn đau tim. Họ nói bệnh này di truyềntrong gia đình bà. Tôi không nhớ mẹ, nhưng chắc Jem nhớ. Anh ấy nhớ mẹ rất rõ,và đôi khi đang chơi giữa chừng anh ấy thở dài hồi lâu, sau đó bỏ đi chơi mộtmình ở phía sau nhà xe. Khi anh ấy như vậy, tôi biết khôn hồn thì đừng quấy rầyanh ấy.
Khi tôi gần được sáu tuổi và Jem xấp xỉ mười, ranh giới cho kỳ nghỉ hè củachúng tôi (nằm trong tầm nghe được tiếng gọi của Calpurnia) là nhà của bà HerryLafayette Dubose cách nhà tôi hai căn về phía Bắc và tòa nhà Radley cách nhàtôi ba căn về phía Nam. Chúng tôi không bao giờ có ý muốn phá vỡ các ranh giớiđó. Tòa nhà Radley là nơi cư ngụ của một thực thể lạ lẫm chỉ cần nghe miêu tả làđủ khiến chúng tôi ngoan ngoãn trong nhiều ngày liên tục, bà Dubose thì chánchết đi được.
Đó là mùa hè Dill đến với chúng tôi.
Một sáng sớm khi chúng tôi bắt đầu trò chơi ở sân sau, Jem và tôi có nghetiếng gì đó ở nhà bên cạnh, trong mảnh vườn trồng bắp cải của cô RachelHaverford. Chúng tôi đến bên hàng rào dây kẽm để xem có phải một chú chó conkhông-con chó săn chuột của cô Rachel đang sắp đẻ-thay vào đó chúng tôi thấymột đứa bé đang nhìn mình. Ngồi ở đó, nó không cao hơn những cây cải là mấy. Chúngtôi nhìn nó cho đến khi nó lên tiếng:
“Chào”
“Chào”, Jem vui vẻ đáp.
“Tao là Charles Baker Harris”, nó nói. “Tao biết đọc đó”.
“Thì sao?” tôi nói.
“Tao nghĩ tui bay muốn biết tao có biết đọc hay không. Tụi bay có thứ gìcần đọc thì tao đọc cho...”
“Mày mấy tuổi”, Jem hỏi, “bốn tuổi rưỡi hả?”
“Sắp bảy tuổi”.
“Vậy có gì bảnh đâu” Jem nói, chĩa ngón trỏ về phía tôi. “Con Scout kiabiết đọc từ lúc mới đẻ, mà nó còn chưa tới trường nữa kìa. Sắp bảy tuổi mà coimày nhỏ xíu à”.
“Tao nhỏ con nhưng tao lớn rồi” nó nói.
Jem hất tóc ra sau để nhìn rõ hơn. “Sao mày không qua đây, Charles BakerHarris?” Anh ấy nói. “Cái tên nghe ngon dữ”.
“Tên tao đâu mắc cười gì hơn tên mày. Dì Rachel nói tên mày là JeremyAtticus Finch”.
Jem cau mặt. “Tao đủ lớn để khớp với tên của tao” anh ấy nói. “Tên mày còndài hơn người mày nữa. Dám chắc là nó dài hơn cỡ ba tấc”.
“Người ta gọi tao là Dill” Dill nói, cựa quậy bên dưới hàng rào.
“Tốt hơn là mày nhảy qua thay vì chui dưới hàng rào” tôi nói. “Mày ở đâutới vậy?”
Dill quê ở Meridian, Mississippi, đang nghỉ hè ở chỗ dì nó, cô Rachel, vàtừ nay trở đi cứ hè là nó về Maycomb. Gia đình nó trước ở Maycomb, mẹ nó làmviệc cho một tay thợ chụp hình ở Meridian, đã đưa ảnh của nó đi dự một cuộc thiBé Xinh và giành được giải thưởng năm đô. Bà cho Dill số tiền đó, nhờ thế nó đixem phim được hai mươi lần.
“Ở đây không có mục phim ảnh gì hết, trừ thỉnh thoảng có chiếu phim về chúaJesus trong tòa án” Jem nói. “Có từng xem thứ gì hay hay không?”
Dill đã xem Dracula, một phát hiện khiến Jem nhìn nó với đôimắt bắt đầu có vẻ nể nang. “Kể tụi tao nghe đi” anh ấy nói.
Dill là một đứa khác lạ. Nó mặc quần soóc bằng vải lanh xanh cài nút vào áosơ mi, tóc nó trắng như tuyết và ép sát vào đầu như lông vịt; nó lớn hơn tôimột tuổi nhưng tôi cao hơn nó. Khi nó kể cho chúng tôi nghe về câu chuyện cũ xìđó đôi mắt xanh của nó hết sáng lên lại tối sầm; tiếng cười của nó bất ngờ vàvui vẻ; nó luôn tay giật chỗ tóc bò liếm ngay giữa trán.
Khi Dill kể rốt ráo hết phim Dracula, và Jem nói phim nghe cóvẻ hay hơn sách, tôi hỏi Dill ba nó đâu, “Không nghe mày nói gì về ba mày hết”.
“Tao không có ba”.
“Ổng chết rồi hả?”
“Không...”
“Vậy nếu ổng không chết tức là mày có ba, đúng không?”
Dill đỏ mặt và Jem bảo tôi im, một dấu hiệu cho thấy rõ ràng Dill đã đượcnghiên cứu và xếp vào loại chấp nhận được. Sau đó mùa hè trôi qua trong sự thỏamãn bình thường. Sự thỏa mãn bình thường nghĩa là: cải thiện ngôi nhà trên câycủa chúng tôi vốn nằm giữa hai cây xoan khổng lồ sinh đôi ở sân sau, làm rộnmọi chuyện, lược qua danh sách những vở kịch dựa trên tác phẩm của OliverOptich, Vitor Appleton và Edgar Rice Burroughs. Trong vụ này chúng tôi may mắncó Dill. Nó đóng những vai trước đây tôi phải nhận - con khỉ đột trong vở Tazan,ông Crabtree trong The Rover Boys, ông Damon trong TomSwift. Vì vậy chúng tôi dần xem Dill là một tay Merlin bỏ túi [8], với mộtcái đầu đầy những kế hoạch ly kỳ, những khát khao quái lạ, và những tưởng tượngkỳ quặc.
Nhưng vào cuối tháng Tám kho tiết mục trò chơi của chúng tôi trở nên nhạtnhẽo vì đã chơi hoài không biết bao lần, và chính lúc đó Dill đã mớm cho chúngtôi ý tưởng dụ Boo Radley ra khỏi nhà.
Ngôi nhà Radley mê hoặc Dill. Bất chấp những cảnh báo và giải thích củachúng tôi, ngôi nhà đó cứ thu hút nó như mặt trăng hút con nước, nhưng hút nókhông vượt qua cột đèn ở góc phố, một khoảng cách an toàn tính từ cổng nhàRadley. Nó sẽ đứng đó, ôm lấy cột đèn, chăm chú nhìn và băn khoăn.
Nhà Radley nhô hẳn ra đường cách nhà tôi một đoạn. Đi về phía Nam, người tathấy hàng hiên của nó; lề đường bẻ góc và chạy dọc khu nhà. Ngôi nhà thấp, từngsơn màu trắng với hàng hiên rộng phía trước và những cửa chớp màu xanh lá cây,nhưng từ lâu đã chuyển sang màu xám xanh giống màu của vuông sân quanh đó.Những miếng ván lớn mục rã vì mưa gió rũ trên mái hiên; những cây sồi che khuấtánh mặt trời. Tàn tích của những chiếc cọc nhọn làm hàng rào xiêu vẹo ở sântrước - một cái sân “để quét” vốn không bao giờ được quét - nơi cỏ cho gia súcvà cỏ thuốc thỏ mọc lan tràn.
Bên trong ngôi nhà có một bóng ma quỷ quái. Người ta nói hắn có thật, nhưngJem và tôi chưa bao giờ thấy hắn. Người ta nói hắn ra ngoài vào ban đêm khitrăng lặn, và nhìn lén qua cửa sổ. Khi cây đỗ quyên khô của người ta đông cứngtrong một đợt rét, đó là do hắn hà hơi vào chúng. Mọi vụ trộm vặt ở Maycomb đềulà do hắn. Có lần thị trấn kinh hoàng vì hàng loạt sự kiện ghê rợn về đêm:người ta tìm thấy gà và những thú cưng trong nhà bị chặt khúc; dù thủ phạm làAddie điên, tên này sau cũng đã tự trầm ở vũng xoáy Barker, nhưng người ta vẫnnhìn vào nhà Radley, không hề muốn dẹp bỏ những nghi ngờ ban đầu của họ. Mộtngười Da đen sẽ không đi ngang nhà Radley vào ban đêm, ông ta sẽ băng qua lềđường đối diện và huýt sáo khi bước đi. Khuôn viên trường Maycomb giáp lưng vớikhu đất nhà Radley; những cây hồ đào cao lớn trong sân nuôi gà nhà Radley rụngđầy quả xuống sân trường. nhưng những quả hạch nằm đó mà không đứa trẻ nào dámđụng đến: những quả hồ đào nhà Radley sẽ giết bạn. Một quả bóng rơi vào sânRadley và coi như mất và không ai buồn nêu ra thắc mắc nào.
Nỗi bất hạnh của ngôi nhà đó bắt đầu nhiều năm trước khi Jem với tôi rađời. Người nhà Radley, tuy được chào đón ở bất cứ nơi nào trong thị trấn, lạisống tách biệt, một sở thích không thể tha thứ được ở Maycomb. Họ không đi nhàthờ, nơi giải trí chủ yếu của Maycomb, mà thờ phụng tại nhà; bà Radley hiếm khiqua bên kia đường uống cà phê giữa buổi sáng với hàng xóm, và chắc chắn khôngbao giờ tham gia nhóm truyền giáo. Ông Radley đi bộ xuống thị trấn lúc mười mộtgiờ rưỡi sáng, và trở về vào đúng mười hai giờ, đôi khi xách một túi giấy nâu,mà láng giềng cho hàng tạp phẩm cho gia đình. Tôi không biết ông già Radleykiếm sống bằng cách nào - Jem nói ông ta “mua bông vải”, một mỹ từ lịch sự đểchỉ việc không làm gì cả - nhưng ông Radley và vợ ông ta sống ở đó với hai contrai từ lâu lắm rồi.
Cửa sổ và cửa chính nhà Radley đóng kín vào những ngày Chủ nhật; một điềunữa trái với cung cách của Maycomb: cửa đóng chỉ có nghĩa là bệnh hay trờilạnh. Trong các ngày thì Chủ nhật là ngày dành cho viếng thăm buổi chiều theonghi thức: các bà mặc áo nịt, đàn ông mặc áo khoác, trẻ con mang giầy. Nhưngleo lên những bậc thềm trước nhà Radley và nói, “xin chào” vào buổi chiều Chủnhật là điều mà không một người hàng xóm nào làm. Ngôi nhà Radley không cónhững cửa lưới. Có lần tôi hỏi bố Atticus liệu nó đã từng có cái nào không; bốAtticus nói có, nhưng trước khi tôi ra đời kia. |
|